Bản án về tội cố ý gây thương tích số 394/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 394/2021/HS-ST NGÀY 03/12/2021 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 03 tháng 12 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 421/2021/TLST-HS ngày 15 tháng 11 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 410/2021/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 11 năm 2021 đối với bị cáo:

Trần Minh T (tên gọi khác: Hoài), sinh năm 1993 tại tỉnh Vĩnh Long; nơi cư trú: Ấp T, xã T, huyện M, tỉnh Vĩnh Long; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Ngọc Th và bà Võ Thị Ngọc H; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam ngày 14/3/2021.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Ông Lê Phú B1, sinh năm 1980, nơi cư trú: Ấp 2, xã V, huyện A, tỉnh An Giang. Có mặt.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Bà Võ Thị Ngọc H, sinh năm 1968, nơi cư trú: Ấp T, xã T, huyện M, tỉnh Vĩnh Long. Có mặt.

Người tham gia tố tụng khác: Người làm chứng:

Ông Lê Đức B2, sinh năm 1970. Vắng mặt.

Ông Phan Hoàng N, sinh năm 1989. Vắng mặt.

Ông Trần Hải Đ, sinh năm 1986. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trần Minh T và Phan Hoàng N (tên gọi khác là Bảo) là anh em cùng mẹ khác cha. Cả hai hiện đang làm chung công trình xây dựng cho cha dượng là ông Lê Thanh H làm chủ thầu, cùng làm với N và T có Lê Đức B2 và em trai là Lê Phú B1 là em ruột của ông H. T, N, B2 cùng tạm trú tại cơ sở trọ địa chỉ: 44B/1 khu phố 1A, phường An Phú, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương. Do có mâu thuẫn với nhau khi làm việc chung tại công trình xây dựng, nên vào khoảng 16 giờ 30 phút ngày 13/3/2021, khi N đi làm về đến ngã tư 550 thuộc khu vực phường Tân Đông Hiệp, thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương thì bị Lê Phú B1 và Lê Đức B2 chặn đường đánh. Sự việc xô xát được người dân can ngăn, nên N đi về nhà trọ. Đến khoảng 17 giờ 30 phút cùng ngày, khi N về đến nhà trọ thì T đã về trước và đang ở trong phòng trọ số 8B, Ngân nhìn thấy Lê Đức Bảo đã về tới phòng trọ số 16 nên đi lại để nói chuyện về sự việc B2, B1 chặn đường đánh N thì lúc này Lê Phú B1 chạy xe vừa tới trước cửa phòng trọ và chửi N, sau đó B1 và N lao vào đánh nhau bằng tay không, còn B2 vào phòng trọ lấy một cây búa và 01 khúc gỗ để xông ra hỗ trợ B1 đánh N. Lúc này, nghe tiếng đánh nhau nên T nhìn ra ngoài thì thấy N cùng với B1 và B2 đang đánh nhau nên T đã vào phòng trọ lấy 01 con dao thái lan, cán màu vàng, dài khoảng 20 cm xông ra đâm trúng B1 02 nhát vào vùng bụng và vùng ngực. Khi nhìn thấy B1 bị chảy máu thì tất cả dừng lại không đánh nhau nữa. Sau đó, T và N lên xe máy bỏ trốn khỏi hiện trường, còn B1 được người thân đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Dương. Đến 10 giờ 00 phút ngày 14/3/2021, Trần Minh T, Phan Hoàng N đã đến Công an phường An Phú để đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi của mình.

Tại Bản kết luận giám định số 366 ngày 08/7/2021 của Trung tâm Pháp y tỉnh Bình Dương kết luận tỷ lệ thương tích của Lê Phú B1 tỷ lệ 39% gồm các vết thương: Vết thương ngực trái khoảng liên sườn III 3,2 x 0,5 cm, thấu ngực tràn máu màng phổi trái, đã điều trị dẫn lưu màng phổi, vết dẫn lưu đường nách trước trái 2 x 0,3 cm, sẹo lành; vết thương bụng cạnh phải mũi ức 4,5 x 0,5cm, thấu bụng thủng gan hạ phân thùy III, đã phẩu thuật khâu gan, vết mổ đường giữa bụng trên rốn 16 x 0,6cm, vết dẫn lưu bụng phải 1,5 x 0,2 cm, sẹo lành.

Cáo trạng số 418/CT-VKS-TA ngày 11/11/2021 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương đã truy tố bị cáo Trần Minh T về tội Cố ý gây thương tích theo quy định tại điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ quyền công tố vẫn giữ nguyên quyết định như bản cáo trạng đã truy tố và xác định: Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: không có; về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đã tác động người thân bồi thường thiệt hại; bị cáo phạm tội do một phần lỗi của bị hại; sau khi phạm tội bị cáo ra đầu thú; bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; gia đình bị cáo có công với Nhà nước.

Kiểm sát viên đề nghị: Xử phạt bị cáo T mức án từ 05 năm 06 tháng đến 06 năm tù.

Về trách nhiệm dân sự: Do bị hại không yêu cầu bồi thường gì thêm nên không đề nghị xem xét.

Về xử lý vật chứng:

Đề nghị tịch thu tiêu hủy: 01 (một) cây búa bằng kim loại dài 35cm; 01 (một) đoạn cơ bida dài 74 cm.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội giống nội dung Viện kiểm sát truy tố, bị cáo đã ăn năn hối cải và xin được giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm trở về với gia đình và xã hội.

Bị hại trình bày nội dung sự việc như bản cáo trạng đã truy tố, sau khi sự việc phạm tội xảy ra gia đình bị cáo đã bồi thường 20.000.000 đồng, bị hại không yêu cầu bồi thường gì thêm và đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Võ Thị Ngọc H bình bày: Bà H là mẹ bị cáo, sau khi sự việc xảy ra, bà H động viên T ra đầu thú và T có nhờ bà H bồi thường cho bị hại nên bà H đã bồi thường 20.000.000 đồng, bà H cũng nhờ người quen đưa tiền cho bị hại điều trị thương tích nhưng không biết số tiền cụ thể. Bà H không yêu cầu bị cáo hoàn trả lại số tiền mà bà H đã bồi thường.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp, đúng quy định.

[2] Tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai của bị cáo tại phiên tòa thống nhất với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với các tình tiết như bản cáo trạng đã truy tố, phù hợp với lời khai của bị hại và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án về thời gian địa điểm, quá trình thực hiện hành vi phạm tội và vật chứng thu giữ. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở nhận định: Vào khoảng 17 giờ 30 phút ngày 13/3/2021, tại cơ sở trọ địa chỉ: 44B/1 khu phố 1A, phường An Phú, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương, khi nhìn thấy anh trai mình Phan Hoàng N bị Lê Đức B2 và Lê Phú B1 dùng tay chân, cây búa và 01 khúc gỗ đánh thì bị cáo lấy 01 con dao Thái Lan, cán màu vàng, dài khoảng 20 cm xông ra đâm trúng Bửu 02 nhát vào vùng bụng và vùng ngực gây thương tích Bản kết luận giám định số 366/2021/GĐPY ngày 08/7/2021 của Trung tâm Pháp y tỉnh Bình Dương kết luận tỷ lệ thương tích của Lê Phú B1 tỷ lệ 39% gồm các vết thương: Vết thương ngực trái khoảng liên sườn III 3,2 x 0,5 cm, thấu ngực tràn máu màng phổi trái, đã điều trị dẫn lưu màng phổi, vết dẫn lưu đường nách trước trái 2 x 0,3 cm, sẹo lành; vết thương bụng cạnh phải mũi ức 4,5 x 0,5cm, thấu bụng thủng gan hạ phân thùy III, đã phẩu thuật khâu gan, vết mổ đường giữa bụng trên rốn 16 x 0,6cm, vết dẫn lưu bụng phải 1,5 x 0,2 cm, sẹo lành. Hành vi bị cáo đã thực hiện đủ yếu tố cấu thành tội Cố ý gây thương tích theo quy định tại điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật Hình sự.

Do đó, Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An truy tố bị cáo về tội Cố ý gây thương tích theo quy định tại điểm c khoản 3 Điều 134 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ và đúng pháp luật, mức đề nghị áp dụng hình phạt đối với bị cáo là phù hợp với hành vi bị cáo đã thực hiện.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm về sức khỏe của người khác một cách trái pháp luật, làm ảnh hưởng an ninh trật tự xã hội tại địa phương. Bị cáo nhận thức hành vi dùng dao Thái Lan gây thương tích là vi phạm pháp luật và sẽ bị trừng trị nhưng vì bức xúc trước hành vi của bị hại nên bị cáo cố ý phạm tội. Vì vậy cần xét xử và áp dụng mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ, hậu quả phạm tội đã thực hiện có xem xét đến tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn và nhân thân của bị cáo.

[4] Đối với Lê Phú B1, Lê Đức B2 có hành vi đánh nhau với Phan Hoàng N nhưng N đã có đơn từ chối giám định thương tích và không yêu cầu xử lý hình sự đối với B1, B2 nên cơ quan điều tra không xem xét xử lý. Tuy nhiên, Lê Phú Bq, Lê Đức B2, Phan Hoàng N đã có hành vi đánh nhau gây mất an ninh trật tự nên Trưởng công an thành phố Thuận An đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với B1, B2, N là có căn cứ.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội bị cáo đã bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo ra đầu thú; bị hại có yêu cầu xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; việc phạm tội có một phần lỗi của bị hại; bị cáo có ông, bà ngoại là người có công với Nhà nước là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Mẹ bị cáo là bà Võ Thị Ngọc H đã bồi thường cho bị hại số tiền 20.000.000 đồng, bị hại không yêu cầu bồi thường gì thêm, bà H không yêu cầu bị cáo phải hoàn trả lại số tiền đã bồi thường nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[8] Về xử lý vật chứng:

Đối với 01 (một) cây búa bằng kim loại dài 35cm; 01 (một) đoạn cơ bida dài 74 cm thu giữ trong vụ án, không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 con dao Thái Lan, cán màu vàng dài khoảng 20cm mà bị cáo sử dụng đâm bị hại, sau khi thực hiện hành vi phạm tội đã vứt vào thùng rác không thu hồi được nên không đặt ra xem xét.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Điểm c khoản 3 Điều 134; các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 47 Bộ luật Hình sự;

- Điều 109; Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

1. Về trách nhiệm hình sự: Tuyên bố bị cáo Trần Minh T phạm tội Cố ý gây thương tích.

Xử phạt bị cáo Trần Minh T 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 14/3/2021.

2. Về xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) cây búa bằng kim loại dài 35cm; 01 (một) đoạn cơ bida dài 74 cm .

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 11/11/2021) 3. Về án phí: Bị cáo Trần Minh T phải chịu 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

327
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 394/2021/HS-ST

Số hiệu:394/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về