Bản án về tội cố ý gây thương tích số 393/2021/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 393/2021/HS-PT NGÀY 02/12/2021 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Trong ngày 02/12/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, số 131 đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa, phường Bến Thành, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 289/2021/HS-PT ngày 09/7/2021 đối với bị cáo Huỳnh Ngọc A, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 3654/2021/QĐXXPT-HS ngày 12/10/2021, Quyết định hoãn phiên tòa số 8300/2021/HSST-QĐ ngày 28/10/2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 8964/2021/HSST-QĐ ngày 16/11/2021, do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án sơ thẩm số 55/2021/HS-ST ngày 26/5/2021 của Tòa án nhân dân Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: Huỳnh Ngọc A; giới tính: nam; sinh năm 1977 tại tỉnh Kiên Giang; nơi đăng ký thường trú: Khu phố 3, thị trấn B, huyện C, tỉnh Kiên Giang; nghề nghiệp: buôn bán; trình độ văn hóa: 02/12; con ông Huỳnh Ngọc E (chết) và bà Phan Thị G; hoàn cảnh gia đình: vợ tên Nguyễn Thị Mỹ H (đã ly hôn), có 3 con, con lớn sinh năm 2001, 2 con nhỏ sinh năm 2005 (sinh đôi);

Tiền án, tiền sự: (không); Bắt, tạm giam: 22/5/2020; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo: Ông Cao Nhật Anh, luật sư của Công ty luật TNHH Đức Danh; Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh; có mặt.

Người có kháng cáo, có liên quan đến kháng cáo:

Bị hại: Ông Lê Minh K; sinh năm 1976; 16/1 đường Nguyễn Chí T; Khu phố 5, thị trấn B, huyện C, tỉnh Kiên Giang; vắng mặt (có đơn xin giải quyết vắng mặt).

Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của ông Lê Minh K: Ông Bùi Minh V, luật sư của Công ty Luật TNHH Thượng tôn Công lý; Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo Huỳnh Ngọc A và ông Lê Minh K quen biết với nhau và có có quan hệ đồng tính với nhau. Đến năm 2019, giữa A và K nảy sinh mâu thuẫn xuất phát từ việc mua bán đất đai.

A cho rằng vì ông K không trả cho A 1.300.000.000đ tiền mua đất, dẫn đến việc A không có tiền để trả nợ cho các chủ nợ, bị các chủ nợ truy tìm, chửi bới đe dọa. Cũng từ sự việc đã nêu, giữa A với ông K nảy sinh mâu thuẫn, có lời lẽ xúc phạm và đe dọa lẫn nhau. Tháng 3/2020, A đến Thành phố Hồ Chí Minh và khi đi trên đường thì bị 02 thanh niên (không rõ lai lịch) đi xe máy dùng dao chém vào tay, dẫn đến việc A phải cấp cứu ở Bệnh viện Đại học Y dược Thành phố Hồ Chí Minh. A cho rằng ông K là người đứng sau sự việc vừa nêu nên nảy sinh ý định trả thù. Để thực hiện ý định này, vào khoảng 11 giờ ngày 21/5/2020, A nhờ một người chạy xe ôm không rõ lai lịch mua 1 lít a-xít loại sử dụng cho bình ắc-quy. Đến khoảng 12 giờ ngày 21/5/2020, người chạy xe ôm đưa cho A 1 túi ny-lon, bên trong có 1 ca nhựa màu trắng có nắp đậy, bên trong ca nhựa là a-xít Sunphuric. Trên đường quay về nơi ở của mình tại Phòng số 501, khách sạn A25, số 14 đường Lưu Hữu Khánh, phường Phạm Ngũ Lão, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, A nghe được tin ông K chuẩn bị đi Vũng Tàu nên A gọi điện thoại cho bà Cao Thị L (người giúp việc cho ông K) để kiểm tra thông tin và xin địa chỉ nơi ở của ông K. Sau đó, A mượn chiếc xe máy Attila mang biển số 51L8-2780 của một người quen (nhưng không rõ lai lịch), sử dụng làm phương tiện, mang a-xít đi đến nơi ở của ông K tại địa chỉ nhà số 315/6 đường Lê Văn Sỹ, Phường 13, Quận 3. Khi đến trước căn nhà vừa nêu, lúc này khoảng 17 giờ 45 phút ngày 21/5/2020, A nhìn thấy ông K cùng với anh Lê Trung O và chị Đặng Bích M đang xếp đồ lên xe ô-tô. K chạy xe đến gần, dừng xe trước mặt ông K rồi cầm ca a-xít đã mở nắp tạt vào mặt ông K, rồi vứt bỏ chiếc ca và chạy đi. Sau đó, A nhắn tin cho chị Nguyễn Thị Mỹ H (vợ cũ của bị cáo, đã ly hôn), nhờ chị H đến khách sạn nơi A thuê phòng để lấy đồ, rồi đón xe về Kiên Giang để trốn.

Ngày 22/5/2020, A đến Công an tỉnh Kiên Giang để đầu thú (bl.125). Hậu quả mà bị cáo gây ra như sau:

Theo Kết luận giám định pháp y về thương tích số 423/TgT.20 ngày 29/5/2020 của Trung tâm Pháp y–Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh, ông K bị bỏng da diện tích khoảng 15% tại vùng mặt, cổ, thân và hai tay. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 35%.

Chị M và anh O đứng gần ông K nên cũng bị a-xít văng vào người. Anh O và chị M cũng bị phỏng cấp độ nhẹ. Trong quá trình điều tra, anh O và chị M từ chối đi giám định và không yêu cầu xử lý đối với bị cáo.

Trong quá trình chuẩn bị xét xử sơ thẩm, Tòa án nhân dân Quận 3 cũng đã yêu cầu Viện kiểm sát thực hiện điều tra bổ sung trưng cầu giám định tỷ lệ thương tật của anh O và chị M nhưng Viện kiểm sát nhân dân Quận 3 cho biết không thực hiện được.

Cáo trạng số 19/CT-VKS ngày 25/01/2021, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Quận 3 đã truy tố bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (Bộ luật hình sự).

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 55/2021/HS-ST ngày 26/5/2021 (kèm “Thông báo sửa chữa, bổ sung bản án” số 99/2021/TB-TA ngày 09/7/2021, “Thông báo sửa chữa, bổ sung bản án” số 833/2021/TB-TA ngày 12/11/2021) của Tòa án nhân dân Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định như sau:

-Áp dụng điểm c khoản 3 Điều 134, điểm b và s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự, Xử phạt bị cáo Huỳnh Ngọc A 4 (bốn) năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”, thời hạn tù tính từ 22/5/2020.

-Tách phần dân sự yêu cầu bồi thường thiệt hại của ông Lê Minh K và anh Lê Trung O để giải quyết trong vụ án dân sự khác khi các đương sự có yêu cầu.

-“Ghi nhận việc bị cáo Huỳnh Ngọc A đã tự nguyện bồi thường cho bị hại Lê Minh K số tiền tổng cộng 50.000.000 đồng theo các biên lai thu tiền số AA/2019/0033084 ngày 23/4/2021 và AA/2019/0033137 ngày 10/5/2021 của Chi cục Thi hành án Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh. Ông Lê Minh K được nhận số tiền này tại Chi cục Thi hành án dân sự Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật” (bl.386).

Ngoài ra, bản án còn tuyên xử lý vật chứng, án phí, quyền kháng cáo của bị cáo, bị hại, người liên quan.

Ngày 02/6/2021, bị cáo có đơn kháng cáo với nội dung: Mức án mà Tòa án nhân dân Quận 3 xử phạt bị cáo là quá nặng. Do vậy, đề nghị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Ngày 02/6/2021, ông Lê Minh K có đơn kháng cáo với nội dung:

Mức án mà Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo là nhẹ, đề nghị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tăng nặng hình phạt đối với bị cáo.

Yêu cầu bị cáo phải bồi thường cho ông K 6.467.998.673đ.

Tại phiên tòa phúc thẩm, Bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo.

Bị hại vắng mặt nhưng có đơn xin rút kháng cáo về phần yêu cầu bồi thường thiệt hại.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc giải quyết kháng cáo như sau: Hành vi của bị cáo là hết sức nguy hiểm, đã gây tổn hại nghiêm trọng đến sức khỏe của ông K. Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, sau khi phạm tội ra đã ra đầu thú; tác động để gia đình nộp 50.000.000đ để bồi thường trước một phần cho bị hại; việc gây án xuất phát từ mâu thuẫn kéo dài với bị hại trong việc mua bán đất. Mức án mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên phạt là có căn cứ, đúng pháp luật. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo và luật sư bào chữa không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh bị cáo có tình tiết giảm nhẹ nào mới. Do vậy, đề nghị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh không chấp nhận kháng cáo của bị cáo và bị hại. Đối với kháng cáo về phần dân sự của bị hại, bị hại có đơn xin rút lại, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với nội dung kháng cáo này.

Bị cáo không có ý kiến bào chữa.

Luật sư Cao Nhật Anh bào chữa cho bị cáo như sau: Bị cáo có trình độ văn hóa thấp kém, mới học hết lớp 2/12; có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như đại diện Viện kiểm đã trình bày. Do vậy, đề nghị Hội đồng xét xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo, không chấp nhận kháng cáo của bị hại.

Bị cáo đồng ý với ý kiến bào chữa của luật sư Nhật Anh, không có ý kiến bào chữa bổ sung, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo được sớm trở về với gia đình.

Luật sư Bùi Minh Vũ phát biểu ý kiến bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị hại như sau: Chỉ vì mâu thuẫn nhỏ nhặt, bị cáo đã có hành vi gây thương tích cho bị hại với hậu quả hết sức nặng và còn ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của bị hại vì bị hại là doanh nhân. Mức án mà Tòa án cấp sơ thẩm tuyên phạt đối với bị cáo là nhẹ, chưa tương xứng. Đề nghị Hội đồng xét xét xử chấp nhận kháng cáo của bị hại, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo. Đối với kháng cáo về phần dân sự, bị hại xin rút lại, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét theo quy định của pháp luật.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến tranh luận như sau: Bị cáo phạm tội xuất phát từ nguyên nhân có sự mâu thuẫn với bị hại từ việc mua bán đất kéo dài nhưng không được giải quyết dứt điểm. Bị cáo có 3 tình tiết giảm nhẹ, trong đó có 2 tình tiết quy định tại khoản 1 Điều 51. Do vậy, Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo mức án dưới mức thấp nhất trong khung hình phạt là có căn cứ. Mức án mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên phạt là tương xứng với tính chất, mức độ vi phạm. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, bị hại.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1].Căn cứ lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm, phiên tòa phúc thẩm, kết quả giám định và các tài liệu chứng cứ thu thập được, có căn cứ để xác định:

Bị cáo Huỳnh Ngọc A và ông Lê Minh K có quen biết với nhau từ nhỏ. Từ khoảng năm 2011 thì hai người có quan hệ tình cảm đồng tính với nhau. Năm 2019, thì giữa hai người nảy sinh mâu thuẫn, xuất phát từ việc mua bán đất.

A cho rằng ông K không trả cho A số tiền 1.300.000.000đ theo như thỏa thuận mua bán đất giữa hai người, dẫn đến việc bị cáo không có tiền để trả cho các chủ nợ, bị các chủ nợ truy tìm, chửi bới, đe dọa. Từ đó, giữa bị cáo và ông K có mâu thuẫn và đe dọa lẫn nhau. Tháng 3/2020, khi bị cáo lên Thành phố Hồ Chí Minh, khi đang đi trên đường thì bị 02 thanh niên (không rõ lai lịch) đi xe máy, dùng dao chém vào tay, dẫn đến việc bị thương và phải đi cấp cứu ở Bệnh viện đại học Y dược Thành phố Hồ Chí Minh. Bị cáo nghĩ rằng ông K là chủ mưu trong vụ việc vừa nêu nên đã nảy sinh ý định thực hiện việc trả thù ông K. Vào khoảng 17 giờ 45 phút ngày 21/5/2021, A điều khiển xe máy mang theo khoảng 1 lít a-xít Sunphuric loại sử dụng cho bình ắc-quy, đựng trong 1 chiếc ca nhựa đi đến trước nhà số 315/6 đường Lê Văn Sỹ, Phường 13, Quận 3 (nơi ở của ông K). Tại đây, A đã tạt ca a-xít vào mặt ông K, làm ông K bị bỏng ở vùng mặt, cổ, thân, tứ chi với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 35%.

Anh Lê Trung O và chị Đặng Thị Bích M là những người đứng gần ông K nên cũng bị a-xít văng trúng vào người gây phỏng cấp độ nhẹ. Trong quá trình điều tra, anh O và chị M cho biết không yêu cầu xử lý hình sự đối với bị cáo, riêng chị M cũng không yêu cầu bồi thường. Trong quá trình chuẩn bị xét xử sơ thẩm, Tòa án nhân dân Quận 3 cũng đã ban hành “Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung” số 24/2021/HSST-QĐ ngày 03/3/2021, yêu cầu Viện kiểm sát Quận 3 trưng cầu giám định để xác định tỷ lệ tổn thương cơ thể của anh O và chị M (bl.363). Tuy nhiên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 3 có văn bản cho biết không thể thực hiện được do chị M và anh O từ chối giám định, việc giám định thì không thể thực hiện qua hồ sơ (bl.362). Do vậy, Tòa án nhân dân Quận 3 xét xử bị cáo trên cơ sở kết quả điều tra, giới hạn truy tố của Viện kiểm sát nhân dân Quận 3 là phù hợp với quy định của pháp luật tố tụng.

[2].Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm hại nghiêm trọng đến sức khỏe người khác. Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là sai trái, bị luật pháp nghiêm cấm nhưng do thiếu ý thức tôn trọng pháp luật nên bị cáo vẫn cố ý vi phạm.

[3].Trong vụ án này, bị cáo đã dùng a-xít Sunphuric để làm phương tiện phạm tội. Thực tế, hành vi của bị cáo không chỉ gây thương tích cho ông K mà còn gây thương tích cho anh Lê Trung O và chị Đặng Bích M. Do vậy, Tòa án cấp sơ thẩm nhận định bị cáo phạm tội thuộc trường hợp “dùng thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người” để làm tình tiết định khung hình phạt là có căn cứ. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm nhận định bị cáo phạm tội thuộc trường hợp “dùng a-xít nguy hiểm” là không thỏa đáng, bởi lẽ không có kết luận của cơ quan chuyên môn xác định nồng độ a-xít và xác định a-xít mà bị cáo sử dụng là a-xít nguy hiểm. Trong khi bị cáo thì khai rằng bị cáo đã nhờ người chạy xe ôm mua cho bị cáo a-xít loại sử dụng cho bình ắc-quy mà không phải là a-xít đậm đặc.

[4].Căn cứ vào các nhận định đã nêu, đối chiếu với quy định của pháp luật, có đủ cơ sở kết luận bị cáo đã phạm tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự. Tòa án cấp sơ thẩm kết án bị cáo theo tội danh, điều luật như đã nêu là có cơ sở. Bị cáo phạm tội lần đầu; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; sau khi phạm tội đã ra đầu thú, tác động để gia đình tự nguyện nộp 50.000.000đ nhằm bồi thường, khắc phục một phần hậu quả. Do vậy, Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng điểm b và s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xử phạt bị cáo 4 năm tù là tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà bị cáo được hưởng.

[5].Về việc bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, còn bị hại kháng cáo đề nghị tăng nặng hình phạt đối với bị cáo: Như đã nhận định tại mục [3], bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Mức án mà Tòa án cấp sơ thẩm tuyên xử là tương xứng với tính chất mức độ vi phạm và các tình tiết giảm nhẹ mà bị cáo được hưởng. Do vậy, cần giữ nguyên mức hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên xử đối với bị cáo; không chấp nhận kháng cáo của bị cáo và bị hại. Các nhận định đã nêu cũng là căn cứ để không chấp nhận ý kiến của luật sư Cao Nhật Anh và luật sư Bùi Minh Vũ.

[6].Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận được đơn xin rút kháng cáo về phần dân sự của bị hại đề ngày 29/11/2021; nội dung đơn được luật sư Bùi Minh Vũ xác nhận. Căn cứ khoản 2 Điều 348 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với nội dung kháng cáo này.

[7].Về án phí:

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, xác định như sau: Kháng cáo của bị cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm. Ông K rút nội dung kháng cáo về mặt dân sự nên ông K phải chịu 50% án phí dân sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015,

1.Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo về việc xin giảm hình phạt; không chấp nhận ý kiến của bị hại về việc đề nghị tăng hình phạt đối với bị cáo; giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 55/2021/HS-ST ngày 26/5/2021 (kèm “Thông báo sửa chữa, bổ sung bản án” số 99/2021/TB-TA ngày 09/7/2021 và “Thông báo sửa chữa, bổ sung bản án” số 833/2021/TB-TA ngày 12/11/2021) của Tòa án nhân dân Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh.

2.Căn cứ điểm c khoản 3 Điều 134, điểm b và s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2021, Xử phạt bị cáo Huỳnh Ngọc A 4 (bốn) năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”, thời hạn tù tính từ 22/5/2020.

3.Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với nội dung kháng về phần dân sự của bị hại Lê Minh K. Phần dân sự đã tuyên trong bản án hình sự sơ thẩm số 55/2021/HS-ST ngày 26/5/2021 (kèm “Thông báo sửa chữa, bổ sung bản án” số 99/2021/TB-TA ngày 09/7/2021 và “Thông báo sửa chữa, bổ sung bản án” số 833/2021/TB-TA ngày 12/11/2021) của Tòa án nhân dân Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh có hiệu lực pháp luật.

4.Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

5.Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm. Ông Lê Minh K phải chịu 150.000đ án phí dân sự phúc thẩm nhưng được trừ vào 300.000đ tiền tạm ứng án phí phúc thẩm mà ông K đã nộp theo biên lai thu tiền số 0033209 ngày 17/6/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh; hoàn trả lại cho ông K 150.000đ.

6.Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

226
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 393/2021/HS-PT

Số hiệu:393/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về