Bản án về tội cố ý gây thương tích số 372/2021/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 372/2021/HS-PT NGÀY 18/11/2021 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 18 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 312/2021/TLPT- HS ngày 21/7/2021, đối với bị cáo Nguyễn Hoàng A, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 141/2021/HS-ST, ngày 16/6/2021 của Tòa án nhân dân quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị cáo kháng cáo:

Nguyễn Hoàng A; sinh năm 1987 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Thường trú tại 815/10 đường D, khu phố 8, phường E, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở tại 428/13 đường F, khu phố 8, phường E, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp lái xe; trình độ văn hóa lớp 9/12; quốc tịch Việt Nam; dân tộc Kinh; giới tính nam; tôn giáo không; con ông Nguyễn Văn G và bà Nguyễn Thị Hoàng H; có vợ là Cao Thị Ngọc I (đã ly hôn) và có 01 con sinh năm 2008; tiền án, tiền sự: không Nhân thân: Ngày 10/8/2010 bị Tòa án nhân dân quận C, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 02 năm tù nhưng cho hưởng án treo, về tội “Cố ý gây thương tích”. Bị cáo chấp hành xong hình phạt chính ngày 10/8/2014 và các phần khác vào ngày 10/12/2010, đã được xóa án tích; bị cáo tại ngoại, có mặt.

Người bào chữa:

Ông Phạm Thái L, là Luật sư của Văn phòng Luật sư Trần Thị Hồng V và Cộng sự, thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh, bào chữa cho bị cáo Nguyễn Hoàng A, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 21 giờ 30 phút ngày 02/5/2019, bị cáo Nguyễn Hoàng A thấy em ruột của mình là chị Nguyễn Thị Hoàng J cùng với anh Nguyễn Hữu K là bạn trai của chị J đang cự cãi, xô xát và đánh nhau với bà Nguyễn Thúy K là mẹ kế của bị cáo tại trước phòng số 2, nhà số 428/18 đường F, phường E, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh. Bị cáo đi lại định kéo anh K ra thì K kêu “Bả có dao”, bị cáo nhìn xuống thấy bên hông phải của K bị chảy máu, còn bà K thì đang cầm con dao Thái Lan, cán màu vàng. Bị cáo đi ra ngoài nhặt khúc cây tầm vông dài khoảng 1 mét, đường kính 4 cm, chị J cũng tự lấy cây xẻng gần đó cùng chạy vào định đánh bà K, nên bà K bỏ chạy vào phòng số 1 và đóng chốt cửa lại. Bị cáo gọi bà K ra ngoài để nói chuyện, nhưng bà K không chịu ra nên bị cáo dùng khúc cây tầm vông, anh K cầm cây xẻng giật lấy được của chị J, cùng đập vào cửa. Bị cáo và K đập được 1 lúc thì góc phía trên, bên trái, bề mặt cánh cửa bị bung mối hàn ra và sụp xuống vào bên trong, tạo ra lỗ trống nhỏ. Bị cáo nghe thấy tiếng bà K chửi từ bên trong vọng ra, đồng thời cánh cửa cứ lay động liên tục nên bị cáo biết bà K đang dùng tay đẩy cửa, chặn lại. Bị cáo tiếp tục dùng khúc cây tầm vông đập nhiều cái vào vị trí lỗ trống, làm lỗ trống rộng thêm và phần mặt cánh cửa bị bung mối hàn sụp vào bên trong. Bị cáo nhìn thấy rõ và kêu bà K ra, nhưng bà K vẫn không ra mà đứng đó chửi nên bị cáo dùng cây tầm vông chọc nhiều cái qua lỗ trống mặt cửa, trúng vào đỉnh đầu, trán trái và vào ngực của bà K. Bà K bỏ chạy lên gác thì bị cáo đưa tay vào rút chốt, mở cửa đi vào phòng và tiếp tục kêu bà K xuống, nhưng bà K không xuống. Bị cáo đi lên chỗ bà K, nhưng khi bước lên được nửa phần cầu thang thì nhìn thấy bà K bị chảy máu nên bị cáo bước xuống và bỏ đi. Một lúc sau thì bị cáo bị Công an phường E đưa về trụ sở làm việc, tại đây bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi nêu trên.

Tại Bản kết luận giám định pháp ý về thương tích số 842/TgT.19 ngày 25/9/2019 và Bản kết luận giám định pháp y về thương tích (giám định bổ sung) số 842.B/TgT.19-20 ngày 30/01/2020 của Trung tâm pháp y, Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh kết luận mức độ tổn thương cơ thể do thương tích gây ra cho bà Nguyễn Thúy K như sau:

- Chấn thương vùng đỉnh trái gây rách da đã được điều trị, hiện còn một sẹo phẳng kích thước 1,3 x (0,1-0,4) cm, tình trạng ổn định.

Có tỷ lệ 02%.

Thương tích do vật tày, vật sắt, vật sắc nhọn hoặc vật có cạnh sắc tác động gây ra.

- Chấn thương vùng trán trái gây rách da, dập não đã được điều trị nội bảo tồn, khâu vết thương, hiện còn một sẹo phẳng kích thước 2,1 x (0,1-0,3) cm, tình trạng ổn định.

Có tỷ lệ 18%.

- Chấn thương phần mềm vùng mắt trái gây rách da mi đã được điều trị, hiện còn một sẹo phẳng kích thước 1,7 x 0,1cm, tình trạng ổn định.

Có tỷ lệ 02%.

Các thương tích do vật tày tác động gây ra.

- Đa chấn thương gây sưng nề mô mềm đã được điều trị, hiện:

+ Không còn dấu vết thương tích vùng ngực. Có tỷ lệ 00%.

+ Còn một vết tăng sắc tố vùng móng ngón III bàn tay phải. Có tỷ lệ 01%.

Thương tích do vật tày tác động gây ra.

Tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể do thường tích gây nên hiện tại là 22%. Tỷ lệ thương tích tại vùng đỉnh trái, trán trái và ngực là 20%”.

Các thương tích không nguy hiểm đến tính mạng đương sự.

Tại giai đoạn điều tra bị cáo đã bồi thường thiệt hại về sức khỏe cho bà K và bà K đã làm đơn bãi nại.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 141/2021/HS-ST, ngày 16/6/2021, Tòa án nhân dân quận B, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và khoản 1 Điều 54 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt Nguyễn Hoàng A 1 (Một) năm 6 (Sáu) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên xử lý vật chứng, tuyên nghĩa vụ nộp án phí và quyền kháng cáo của bị cáo.

Sau khi xét xử sơ thẩm, vào ngày 21/6/2021 bị cáo Nguyễn Hoàng A làm đơn kháng cáo xin được hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo Nguyễn Hoàng A khai nhận đã thực hiện những hành vi như Bản án sơ thẩm đã mô tả, bị cáo bổ sung kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh sau khi tóm tắt nội dung vụ án, phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm mà bị cáo Nguyễn Hoàng A thực hiện, có quan điểm như sau: Bị cáo có hành vi dùng cây tầm vông là hung khí nguy hiểm gây thương tích cho bị hại với tỷ lệ 22% nên Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” là có căn cứ, đúng tội. Bị cáo có tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2-015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Bị cáo đã từng bị Tòa án xử phạt 2 năm tù nhưng cho hưởng án treo và lần phạm tội này cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo dưới khung hình phạt. Xét thấy mức án 1 năm 6 tháng tù mà cấp sơ thẩm đã áp dụng là tương xứng với tính chất, mức độ do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ mới, nên không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

Luận cứ bào chữa của Luật sư cho rằng: Hiện nay gia đình bị cáo khó khăn, bị cáo là lao động chính đang nuôi con chưa thành niên. Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Mặt khác trong vụ án này bị hại có lỗi trước đã dùng dao đâm bạn của em ruột bị cáo làm cho bị cáo không kiềm chế được nên mới có hành vi phạm tội. Đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng án treo, trong trường hợp không được hưởng án treo thì giảm án cho bị cáo.

Trong lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm cho bị cáo hưởng án treo để bị cáo có điều kiện hòa nhập cộng đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Đơn kháng cáo của bị cáo làm trong hạn luật định phù hợp với quy định tại Điều 332 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự, nên được chấp nhận xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[2] Lời khai của bị cáo Nguyễn Hoàng A tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp với các lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, nên có đủ căn cứ xác định: Bị cáo là người có hành vi dùng cây tầm vông dài 1m, có đường kính 4cm đánh bị hại, gây ra thương tích cho bị hại có tỉ lệ là 22%. Do đó, cấp sơ thẩm xét xử và kết tội bị cáo phạm tội “Cố ý gây thương tích”, theo điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, là có căn cứ, đúng tội.

[3] Xét kháng cáo của bị cáo, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy: Khi thấy bị cáo cầm cây tầm vông chạy đến thì bị hại sợ bị đánh nên đã bỏ chạy vào phòng chốt cửa lại, nhưng bị cáo không dừng lại mà dùng cây tầm vông đập vào cửa để xông vào đánh bị hại; khi biết bị hại đứng bên trong giữ cánh cửa thì bị cáo dùng cây tầm vông chọt vào lỗ trống cho trúng vào người bị hại, để bị hại không chắn được cửa, để bị cáo vào đánh bị hại. Điều này cho thấy ý thức quyết tâm phạm tội của bị cáo là rất cao, bị cáo chỉ dừng lại khi nhìn thấy bị hại bị chảy nhiều máu ở vùng đầu và bị ngất xỉu. Cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 01 năm 06 tháng tù là đã nhẹ so với tính chất mức, độ phạm tội của bị cáo và những tình tiết giảm nhẹ mà bị cáo được hưởng. Tại phiên tòa bị cáo không cung cấp được tình tiết giảm nhẹ nào mới nên không có căn cứ xem xét giảm nhẹ cho bị cáo. Bị cáo có nhân thân xấu, đã từng bị Tòa án xử phạt 2 năm tù cho hưởng án treo cũng về tội “Cố ý gây thương tích” và tính chất mức, độ phạm tội lần này của bị cáo thuộc trường hợp rất nghiêm trọng, hơn nữa bị hại là mẹ kế của bị cáo nên hành vi của bị cáo đã gây dư luận không tốt trong xã hội. Do đó Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo xin được hưởng án treo của bị cáo.

Nhận định trên là lập luận để chấp nhận quan điểm của đại diện Viện kiểm sát và không chấp nhận luận cứ bào chữa của Luật sư.

[4] Về án phí: Do không chấp nhận kháng cáo nên bị cáo A phải chịu tiền án phí hình sự phúc thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Hoàng A. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 141/2021/HS-ST ngày 16/6/2021 của Tòa án nhân dân quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.

Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và khoản 1 Điều 54 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017:

Xử phạt Nguyễn Hoàng A 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.

Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Nguyễn Hoàng A phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng tiền án phí hình sự phúc thẩm để sung vào ngân sách Nhà nước.

Các quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

130
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 372/2021/HS-PT

Số hiệu:372/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về