Bản án về tội cố ý gây thương tích số 37/2024/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 37/2024/HS-PT NGÀY 15/05/2024 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 15 tháng 5 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau xét xử phúc thẩm công Khi vụ án hình sự thụ lý số 24/2024/TLPT-HS ngày 29 tháng 3 năm 2024 đối với các bị cáo Trương Hoàng L và Võ Hoàng Kh do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 07/2024/HS-ST ngày 26/02/2024 của Tòa án nhân dân huyện ĐD.

- Bị cáo có kháng cáo:

1. Trương Hoàng L (tên gọi khác là Khang), sinh năm 2004 tại xã TD, huyện ĐD, tỉnh Cà Mau; nơi cư trú: Ấp T, xã T, huyện Đ, tỉnh Cà Mau; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trương Văn U và bà Võ Thị L1; chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo tại ngoại có mặt.

2. Võ Hoàng Kh, sinh năm 2000 tại xã TD, huyện ĐD, tỉnh Cà Mau; nơi cư trú: Ấp T, xã T, huyện Đ, tỉnh Cà Mau; nghề nghiệp: Tài xế; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Võ Văn Ch và bà Lâm Thị Ch1; chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: không. Bị cáo tại ngoại có mặt.

- Bị hại: Anh Lê Phúc H, sinh năm 2001 (có mặt) Nơi cư trú: Ấp Đ, xã T, huyện Đ, tỉnh Cà Mau.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (không được Tòa án triệu tập): Ông Lê Tấn L2, sinh năm 1973; nơi cư trú: Ấp Đ, xã T, huyện Đ, tỉnh Cà Mau.

- Người bào chữa cho bị cáo L: Luật sư Trần Hoàng P của Văn phòng Luật sư Trần Hoàng H thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Cà Mau. Luật sư có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22 giờ ngày 25/10/2023, tại cổng Trung tâm Văn hoá huyện ĐD, Trương Hoàng L bị một số người (không rõ lai lịch) của nhóm Grab Lê D dùng tay, chân đánh vào vùng đầu, mặt làm rách mí mắt bên trái rồi bỏ đi. Sau khi bị đánh, L điều khiển xe máy đến nhà nghỉ Huỳnh Ng ở khóm M, thị trấn Đ, huyện Đ để gặp Trần Đình Kh là bạn của L đang lưu trú. Tại đây, L kể lại sự việc mình vừa bị đánh cho Kh nghe, đồng thời gọi điện kêu Võ Hoàng Kh là bà con cô cậu với L đến nhà nghỉ Huỳnh Ng. Khoảng 15 phút sau, Kh đến nơi thì L kể lại sự việc mình vừa bị đánh, Kh hỏi L tính sao thì L đáp “bị nó đánh thì đánh lại chứ sao”. Kh nói “đánh thì đánh liền trong đêm nay, để ngày mai là nó nguội”. Đồng thời, L và Kh gọi điện rủ Lưu Quốc Kh1 đi đánh nhau nhưng Kh1 từ chối. Lát sau, Kh1 gọi lại cho Kh nói “có chuyện gì thì để ngày mai tính, giờ ra quán Thu T uống cà phê” thì tất cả đồng ý. Sau đó cả ba rời khỏi nhà nghỉ Huỳnh Ng để đi đến quán Thu T ở khóm N, thị trấn Đ gặp Kh1 uống cà phê; Kh điều khiển xe máy hiệu Sonic biển số 60G1-321xx chở Kh, còn L điều khiển xe máy hiệu Satria biển số 69F1-755.xx đi một mình.

Đến khoảng 00 giờ ngày 26/10/2023, khi đến đoạn vòng xoay Chà Là - TD thì L, Kh và Kh phát hiện Lê Phúc H điều khiển xe máy hiệu Winner biển số 69F1-335.xx mặc áo khoác màu vàng của nhóm Grab Lê D, nghĩ H là người vừa đánh L lúc nãy nên cả ba quay đầu xe đuổi theo H. Trong lúc Kh đuổi kịp H đến trước tiệm tạp hoá Ba Vịt thuộc khóm M, thị trấn Đ thì Kh nói “thằng này em tao, nó hiền không biết gì đâu”. Tuy nhiên, Kh vẫn điều khiển xe máy áp sát H rồi nói “dừng lại cho anh hỏi chuyện” nhưng H không chịu dừng. Thấy vậy, L điều khiển xe máy tông vào đuôi xe của H làm cả hai xe máy đều ngã xuống lộ về bên trái, bàn chân trái và cẳng tay trái của H bị cày xuống mặt lộ gây thương tích. H đứng lên bỏ chạy thì bị L dùng chân đạp trúng người làm H té ngã xuống lộ, L dùng tay đánh trúng vào mặt, vai của H khoảng 02 cái. Thấy vậy, Kh cũng xông vào dùng tay đánh trúng vào đầu, mặt, cổ của H khoảng 12-13 cái làm mũ bảo hiểm của H bị rớt ra. Lúc này, Kh can ngăn không cho tiếp tục đánh H và nói “đừng có đánh nó nữa, nó có biết gì đâu, sao đánh nó hoài vậy”. Tuy nhiên, L tiếp tục nhặt mũ bảo hiểm của H bị rơi ra đánh liên tiếp trúng vào đầu, vai của H khoảng 7-8 cái làm vỡ nón bảo hiểm và dùng chân đá trúng vào lưng H khoảng 3-4 cái. Kh cũng dùng tay đánh trúng vào mặt, đầu của H khoảng 7-8 cái thì H lom khom ngồi dậy định bỏ chạy thì Kh dùng chân phải đạp trúng vào đầu H 01 cái làm té nằm xuống lộ, H nằm nghiêng co người thì Kh dùng tay trái nắm cổ áo H kéo lên, dùng tay phải đánh trúng vào vùng mặt H khoảng 03 cái thì H nằm bất tỉnh. L định tiếp tục đánh H thì bà Võ Thị L1 (mẹ L) và Trương Minh Kh2 (em ruột L) chạy đến can ngăn. Lúc này, L nhặt được cục bê tông chọi về hướng H nhưng Kh đứng giữa can ngăn rồi dùng tay ôm đầu H lại nên trúng vào người Kh2 nhưng không gây thương tích. Thấy vậy, L tiếp tục nhặt đoạn tre khô ném về hướng H nhưng không trúng. Do được mọi người can ngăn nên L và Kh bỏ về nhà.

Sau đó, H được gia đình đưa đến Bệnh viện Đa khoa Cà Mau điều trị vết thương, đến ngày 03/11/2023 thì xuất viện. Đồng thời, có đơn yêu cầu giám định tỷ lệ thương tích và xử lý hình sự đối với Trương Hoàng L và Võ Hoàng Kh.

Tại Bản kết luận giám định tổn thương cơ thể trên người sống số 245/KLTTCT- TTPY ngày 27/10/2023 của Trung tâm Pháp y thuộc Sở Y tế tỉnh Cà Mau đối với Lê Phúc H kết luận:

- 01 vết rách da vùng trán phải, kích thước 02cm x 0,1cm, tỷ lệ 03%, do vật tày hoặc vật tày có cạnh gây ra.

- 01 vết sây sát thái dương trái trong chân tóc, kích thước 01cm x 0,9cm, không xếp tỷ lệ %.

- 01 mảng sây sát vùng trán trái, kích thước 12cm x 03cm, không xếp tỷ lệ %.

- 01 vết sây sát mũi, kích thước 0,5cm x 0,2cm, không xếp tỷ lệ %.

- 01 vết bầm hông trái, kích thước 04cm x 2,5cm, không xếp tỷ lệ %.

- 01 mảng bầm vùng lưng phải, kích thước 23cm x 14cm, không xếp tỷ lệ %.

- 01 vết sây sát da vùng bả vai phải, kích thước 02cm x 01cm, không xếp tỷ lệ %.

- 01 vết sây sát 1/3 trên mặt ngoài cẳng chân trái, kích thước 02cm x 1,5cm, không xếp tỷ lệ %.

- 01 vết sây sát và bầm cổ chân trái, kích thước 04cm x 2,5cm, không xếp tỷ lệ %.

- 01 vết sây sát ngón I bàn chân phải, kích thước 01cm x 0,1cm, không xếp tỷ lệ %.

- 01 vết sây sát da khoảng liên sườn X đường nách giữa phải, kích thước 01cm x 01cm, không xếp tỷ lệ %.

- Nề vùng gáy, không xếp tỷ lệ %.

- Bầm 2 mắt; Xuất huyết kết mạc 2 mắt. Tại thời điểm giám định chưa đánh giá được mức độ tổn thương chưa xếp tỷ lệ %. Đề nghị giám định bổ sung sau 30 ngày kể từ ngày xảy ra vụ việc.

- 01 vết bầm tai phải, kích thước 3,5cm x 2,5cm. Tại thời điểm giám định chưa đánh giá được mức độ tổn thương chưa xếp tỷ lệ %. Đề nghị giám định bổ sung sau 30 ngày kể từ ngày xảy ra vụ việc.

- Bầm tai trái, kích thước 05cm x 4,5cm. Tại thời điểm giám định chưa đánh giá được mức độ tổn thương chưa xếp tỷ lệ %. Đề nghị giám định bổ sung sau 30 ngày kể từ ngày xảy ra vụ việc.

- 01 vết rách da 1/3 trên mặt sau - trong cẳng tay trái, kích thước 07cm x 02cm (bệnh án không ghi nhận). Đề nghị giám định bổ sung sau 30 ngày khi hồ sơ bệnh án có ghi nhận.

- 01 vết rách da ngón II bàn chân trái, kích thước 03cm x 0,5cm (bệnh án không ghi nhận). Đề nghị giám định bổ sung sau 30 ngày khi hồ sơ bệnh án có ghi nhận.

- 01 vết rách da ngón III bàn chân trái, kích thước 03cm x 0,5cm (bệnh án không ghi nhận). Đề nghị giám định bổ sung sau 30 ngày khi hồ sơ bệnh án có ghi nhận.

- 01 vết rách da lòng bàn chân trái, kích thước 03cm x 0,2cm (bệnh án không ghi nhận). Đề nghị giám định bổ sung sau 30 ngày khi hồ sơ bệnh án có ghi nhận.

Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể tại thời điểm giám định là 03%.

Tại Bản kết luận giám định bổ sung tổn thương cơ thể trên người sống số 280/KLTTCT-TTPY ngày 30/11/2023 của Trung tâm Pháp y thuộc Sở Y tế tỉnh Cà Mau, đối với Lê Phúc H kết luận:

- Thâm quầng quanh mắt phải, kích thước 03cm x 1,5cm, không xếp tỷ lệ %.

- Thâm quầng quanh mắt trái, kích thước 03cm x 02cm, không xếp tỷ lệ %.

- Sau tai phải và trái không còn thương tích, không xếp tỷ lệ %.

- Than đau và ù tai phải, không xếp tỷ lệ %.

- Than đau nhìn mờ chảy nước mắt, không xếp tỷ lệ %.

- 01 vết sẹo 1/3 trên mặt sau-trong cẳng tay trái, kích thước 07cm x 1,5cm, dạng sẹo phẳng trên bề mặt da. Tỷ lệ 01% do vật tày hoặc vật tày có cạnh gây ra.

- 01 vết sẹo ngón II bàn chân trái, kích thước 01cm x 0,5cm. Tỷ lệ 01% do vật tày hoặc vật tày có cạnh gây ra.

- 01 vết sẹo ngón III bàn chân trái, kích thước 02cm x 0,5cm. Tỷ lệ 01% do vật tày hoặc vật tày có cạnh gây ra.

- 01 vết sẹo lòng bàn chân trái, kích thước 2,5cm x 0,5cm. Tỷ lệ 01% do vật tày hoặc vật tày có cạnh gây ra.

- Mắt phải-trái: Loạn thị, chưa ghi nhận bất thường, không xếp tỷ lệ %.

- Tai phải: Viêm tai giữa cấp là bệnh lý, không xếp tỷ lệ %.

Tỷ lệ % tổn thương cơ thể tại thời điểm giám định là 04%. Tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể tại bản kết luận giám định tổn thương cơ thể trên người sống số 245/KLTTCT- TTPY ngày 27/10/2023 và bản kết luận giám định pháp y bổ sung là 07%.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 07/2024/HS-ST ngày 26/02/2024, Tòa án nhân dân huyện ĐD đã quyết định:

- Về trách nhiệm hình sự: Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 134; điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo L 10 tháng tù, xử phạt bị cáo Kh 08 tháng tù cùng về tội “Cố ý gây thương tích”.

- Căn cứ Điều 48 của Bộ luật Hình sự; các Điều 584, 585, 587, 590 của Bộ luật Dân sự, buộc các bị cáo liên đới bồi thường cho bị hại 35.751.880 đồng, phần của mỗi bị cáo là 17.875.940 đồng.

Ngoài ra, án sơ thẩm còn xử lý vật chứng, án phí, quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 29/02/2024, bị cáo L và bị cáo Kh kháng cáo toàn bộ bản án, xin giảm nhẹ hình phạt do bị hại bị thương tích có 7% và xin giảm mức bồi thường thiệt hại.

Đến ngày 04/3/2024, bị cáo L và bị cáo Kh kháng cáo bổ sung xin được hưởng án treo và giảm mức bồi thường thiệt hại (mức bồi thường theo đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện ĐD là 8,4 triệu đồng, gồm chi phí điều trị 4,8 triệu đồng và tổn thất tinh thần 3,6 triệu đồng (tương ứng với 02 tháng lương)).

Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Các bị cáo vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tham gia phiên tòa phát biểu: Đề nghị áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 07/2024/HS-ST ngày 26/02/2024 của Tòa án nhân dân huyện ĐD về phần hình phạt và phần trách nhiệm dân sự đối với các bị cáo.

- Luật sư bào chữa cho bị cáo L trình bày: Kết quả giám định bổ sung xác định bị hại bị thương tích 4% nhưng không phải do bị cáo trực tiếp gây ra; Đề nghị áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, h khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự cho bị cáo L được hưởng án treo theo quy định.

- Ý kiến của bị hại: Đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm.

- Lời nói sau cùng của bị cáo L: Đồng ý với ý kiến của Luật sư; Thừa nhận hành vi phạm tội, xin được hưởng án treo.

- Lời nói sau cùng của bị cáo Kh: Thừa nhận hành vi phạm tội, xin được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại cấp sơ thẩm, bị cáo Trương Hoàng L có khiếu nại về Kết luận giám định nhưng đã được cơ quan điều tra giải thích nên bị cáo đã rút lại yêu cầu. Tại Biên bản hỏi cung bị can ngày 04/01/2024 (bút lục số 277), bị cáo L xác định đã nhận được thông báo về kết quả giám định thương tích và không có ý kiến. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo L và Luật sư bào chữa cho bị cáo lại tiếp tục đặt ra ý kiến đề nghị giám định lại đối với thương tích của anh H, cho rằng bị cáo không trực tiếp đánh vào chân của bị hại nên không thể gây ra vết thương được giám định bổ sung có tỷ lệ 4%. Kết quả giám định bổ sung xác định bị hại có các thương tích: 1. Một vết sẹo 1/3 trên mặt sau-trong cẳng tay trái, kích thước 07cm x 1,5cm, dạng sẹo phẳng trên bề mặt da, tỷ lệ 01%; 2. Một vết sẹo ngón II bàn chân trái, kích thước 01cm x 0,5cm, tỷ lệ 01%; 3. Một vết sẹo ngón III bàn chân trái, kích thước 02cm x 0,5cm, tỷ lệ 01%; 4. Một vết sẹo lòng bàn chân trái, kích thước 2,5cm x 0,5cm, tỷ lệ 01%. Các thương tích này đều do vật tày hoặc vật tày có cạnh gây ra và phù hợp với tư thế bị hại bị bị cáo L tông xe làm ngã xuống lộ về bên trái, bàn chân trái và cẳng tay trái của bị hại cày xuống mặt lộ. Tại phiên tòa, Luật sư cung cấp 01 USB thể hiện nội dung Cơ quan Điều tra huyện ĐD làm việc với bị cáo L về việc bị cáo L khiếu nại kết quả giám định. Tuy nhiên, Luật sư không có thiết bị để sử dụng USB này, cũng không chuyển dữ liệu có trong USB sang dạng có thể đọc hoặc nghe được cũng như không có cơ sở để xác định nguồn gốc, xuất xứ của USB. Hơn nữa, do phía bị cáo L thừa nhận các thương tích nói trên của bị hại là do bị cáo tông xe gây ra. Do đó, việc thu thập USB này là không cần thiết, không làm thay đổi kết quả giám định đối với bị hại.

[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, cụ thể như sau: Vào khoảng 00 giờ ngày 26/10/2023, tại khóm M, thị trấn ĐD, chỉ vì lý do nghĩ anh H là người đã đánh L trước đó mà Võ Hoàng Kh đã dùng xe ép sát xe của anh H, L điều khiển xe mô tô khác tông vào phía sau xe của anh H dẫn đến anh H ngã xuống đường gây nên vết thương ở bàn chân trái. Sau đó L dùng tay, chân, mũ bảo hiểm; Kh dùng tay, chân đánh gây thương tích cho anh H với tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể vào thời điểm giám định là 07%. Với các tình tiết này, Tòa án nhân dân huyện ĐD đã xét xử các bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm i khoản 1 Điều 134 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ.

[3] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội thuộc trường hợp tội phạm ít nghiêm trọng, trực tiếp xâm phạm đến sức khỏe của người khác, làm ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự tại địa phương. Các bị cáo không có câu kết bàn bạc chặt chẽ trước khi phạm tội nên thuộc trường hợp giản đơn. Trong đó, bị cáo L là người khởi xướng và cùng bị cáo Kh thực hiện hành vi phạm tội. Các bị cáo gây thương tích cho bị hại là trái pháp luật, phạm tội thì phải bị xử lý và chịu hình phạt theo quy định của pháp luật hình sự.

[4] Xét kháng cáo của các bị cáo về phần trách nhiệm hình sự:

[4.1] Đối với bị cáo L: Khi xét xử, cấp sơ thẩm có xem xét, đánh giá đúng tính chất của vụ án, mức độ của hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo, gồm: Thành khẩn Khi báo, ăn năn hối cải; Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; Bác ruột tên Trương Minh Thù tham gia cách mạng; Ông ngoại tên Võ Văn Đầy là thương binh 4/4 được Nhà nước tặng Huân chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng ba; Bị cáo được Ủy ban nhân dân xã TD, huyện ĐD tặng Giấy khen do có thành tích xuất sắc trong việc bắt trộm cắp tài sản. Khi quyết định hình phạt, cấp sơ thẩm chỉ căn cứ điểm i, s khoản 1 Điều 51 mà không căn cứ khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự để xử lý là có thiếu xót. Tuy nhiên, mức hình phạt 10 tháng tù mà cấp sơ thẩm quyết định đối với bị cáo là phù hợp. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo trình bày thêm là lao động chính trong gia đình nhưng không có xác nhận của chính quyền địa phương nơi cư trú nên không được chấp nhận. Do không cung cấp được tình tiết giảm nhẹ nào mới, nên bị cáo kháng cáo xin được hưởng án treo không được chấp nhận.

[4.2] Đối với bị cáo Kh: Khi xét xử, cấp sơ thẩm có xem xét, đánh đúng tính chất của vụ án, mức độ của hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo, gồm: Thành khẩn Khi báo, ăn năn hối cải; Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; Ông nội tên Võ Văn Đầy là thương binh 4/4 được Nhà nước tặng Huân chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng ba. Cũng như đối với bị cáo L, khi quyết định hình phạt, cấp sơ thẩm chỉ căn cứ điểm i, s khoản 1 Điều 51 mà không căn cứ khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự để xử lý là có thiếu xót. Tuy nhiên, mức hình phạt 08 tháng tù mà cấp sơ thẩm quyết định đối với bị cáo là phù hợp. Bị cáo kháng cáo xin được hưởng án treo nhưng không cung cấp được tình tiết giảm nhẹ nào mới nên cũng không được chấp nhận.

[5] Xét kháng cáo của các bị cáo về phần trách nhiệm dân sự:

Cấp sơ thẩm buộc các bị cáo phải có nghĩa vụ liên đới bồi thường thiệt hại về sức khỏe cho bị hại, gồm: Chi phí điều trị 4.321.880 đồng; Chi phí thuê phương tiện 2.500.000 đồng; Chi phí bồi dưỡng sức khỏe cho bị hại 1.280.000 đồng; Chi phí phục hồi sức khỏe 3.250.000 đồng; Thu nhập thực tế bị mất của bị hại 11.400.000 đồng; Thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc bị hại 4.000.000 đồng; Tổn thất tinh thần 9.000.000 đồng. Tổng cộng là 35.751.880 đồng. Trong đó, phần của mỗi bị cáo là ½.

Sau khi xét xử sơ thẩm, các bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ mức bồi thường thiệt hại cho bị hại theo các khoản bồi thường mà Viện kiểm sát nhân dân huyện ĐD đề nghị tại phiên tòa sơ thẩm, cụ thể: Chi phí điều trị 4,8 triệu đồng; Tổn thất về tinh thần 02 tháng lương 3,6 triệu đồng. Tổng cộng là 8,4 triệu đồng. Tuy nhiên, các khoản bồi thường mà đại diện Viện kiểm sát cấp sơ thẩm đề nghị còn thiếu các khoản bồi thường, gồm: Chi phí đi lại trong thời gian điều trị, chi phí bồi dưỡng sức khỏe cho bị hại, chi phí phục hồi sức khỏe cho bị hại; thu nhập thực tế bị mất của bị hại, thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc bị hại và tổn thất tinh thần của bị hại. Các khoản bồi thường này đã được Tòa án cấp sơ thẩm xác định là phù hợp với quy định của pháp luật dân sự về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Do đó, kháng cáo của các bị cáo về phần trách nhiệm dân sự không được chấp nhận.

[6] Với các phân tích nêu trên, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tại phiên tòa được chấp nhận; Ý kiến của Luật sư bào chữa cho bị cáo L không được chấp nhận.

[7] Do không chấp nhận kháng cáo, nên các bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm và án phí dân sự phúc thẩm.

[8] Các phần khác của án sơ thẩm không bị kháng cáo hoặc bị kháng nghị, đã có hiệu lực thi hành kể từ khi hết hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Trương Hoàng L và Võ Hoàng Kh; Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 07/2024/HS-ST ngày 26 tháng 02 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện ĐD về phần hình phạt cũng như phần trách nhiệm dân sự đối với các bị cáo.

2. Về trách nhiệm hình sự:

2.1. Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 134; điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Trương Hoàng L 10 (mười) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo chấp hành án;

2.2. Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 134; điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Võ Hoàng Kh 08 (tám) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

3. Về trách nhiệm dân sự:

3.1. Căn cứ các điều 584, 587, 590 của Bộ luật Dân sự, buộc các bị cáo phải có nghĩa vụ liên đới bồi thường thiệt hại về sức khỏe cho anh Lê Phúc H tổng số tiền 35.751.880 (ba mươi lăm triệu bảy trăm năm mươi mốt nghìn tám trăm tám mươi) đồng. Trong đó, phần bồi thường của từng bị cáo là 17.875.940 (mười bảy triệu tám trăm bảy mươi lăm nghìn chín trăm bốn mươi) đồng.

3.2. Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong các khoản tiền nêu trên, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền phải thi hành theo lãi suất được quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự.

4. Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2035/UBTVQH14 ngày 30/12/2035 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

4.1. Về án phí hình sự phúc thẩm: Các bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng/bị cáo;

4.2. Về án phí dân sự phúc thẩm: Các bị cáo phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng/bị cáo.

5. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

6. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

220
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 37/2024/HS-PT

Số hiệu:37/2024/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Cà Mau
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/05/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về