Bản án về tội cố ý gây thương tích số 35/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỤC NAM, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 35/2023/HS-ST NGÀY 28/06/2023 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Trong các ngày 23 và 28 tháng 6 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 27/2023/TLST-HS ngày 08 tháng 5 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 27/2023/QĐXXST-HS ngày 26/5/2023 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Văn P, sinh năm 1996 tại huyện L, tỉnh Bắc Giang; nơi cư trú: Thôn Đ, xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang; nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hóa: Lớp 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T và bà Kim Thị N; chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không có; nhân thân: Tại bản án số 48/2022/HS-ST ngày 08/9/2022 của Tòa án nhân dân huyện Lục Nam xử phạt 03 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; bị cáo đang chấp hành án phạt tù của bản án số 48/2022/HS-ST ngày 08/9/2022 của Tòa án nhân dân huyện Lục Nam; có mặt.

2. Nguyễn Đức Q, sinh năm 2003 tại huyện L, tỉnh Bắc Giang; nơi cư trú: Thôn H, xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang; nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hóa: Lớp 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam;

con ông Nguyễn Đức T và bà Ngô Thị M; chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không có; bị cáo tại ngoại, bị áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.

* Bị hại: Hoàng Văn Ph, sinh năm 1985; nơi cư trú: Thôn H, xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang; có mặt

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Phan Thị L, sinh năm 1985; nơi cư trú: Thôn H, xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang; vắng mặt

* Người làm chứng: Hoàng Xuân U, sinh năm 1976; nơi cư trú: Tổ dân phố G, thị trấn Đ, huyện L, tỉnh Bắc Giang; vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Tháng 12/2021, anh Hoàng Văn Ph vay của Nguyễn Văn P số tiền 10.000.000 đồng, hẹn 2 tháng sau sẽ trả. Hết thời hạn phải trả tiền, P đòi nợ nhiều lần nhưng anh Ph không trả.

Chiều ngày 06/4/2022, Nguyễn Văn P cùng với Nguyễn Đức Q, Nguyễn Quốc G và Tống Văn B ngồi uống bia tại khu vực Đ, thị trấn Đ, huyện L; trong lúc ngồi uống bia P rủ Q, G và B đi cùng với P đến tổ dân phố G, thị trấn Đ để P đòi nợ nhưng P không nói đòi nợ ai thì Q, B và G đồng ý. Sau đó, P điều khiển xe máy chở B, còn G điều khiển xe máy chở Q đi đến quán bi-a “P H” của anh Hoàng Văn Ph ở địa chỉ tổ dân phố G, thị trấn Đ, huyện L, tỉnh Bắc Giang. Đến nơi, P, Q, G và B đỗ xe ở rìa đường rồi đi đến trước cửa quán bi-a “PH” thì thấy quán đóng cửa, P đứng ngoài cửa gọi thì nghe thấy tiếng anh Ph trả lời ở bên trong quán, giữa P và anh Ph xảy ra to tiếng, cãi chửi nhau. Lúc này, P quan sát thấy trước cửa nhà bên cạnh quán bi-a (nhà ông Hoàng Xuân U) có để 01 điếu cày bằng tre, P đi đến lấy chiếc điếu cày cầm ở tay trái rồi đi ra chỗ Q, G và B nói “Tí thằng này ra đánh cho nó một trận”; Q, B, G đồng ý.

Khi anh Ph vừa mở cửa quán thì P cầm điếu cày ở tay trái lao vào trong quán trong tư thế đối diện với anh Ph, P cầm điếu cày đập 01 cái theo hướng từ trên xuống, từ trái sang phải vào vùng thái dương phải anh Ph; anh Ph bỏ chạy vào trong quán thì P, Q, G và B đuổi theo. Do không chạy được tiếp nên anh Ph quay lại thì P đuổi đến, dùng điếu cày đập tiếp 01 cái theo hướng từ trên xuống dưới về phía anh Ph, anh Ph dơ hai tay lên đỡ thì bị điếu cày đập vào mu bàn tay phải làm chiếc điếu cày văng ra khỏi tay P, rơi xuống nền nhà. Lúc này, B dùng tay phải nhặt chiếc điếu cày dưới nền nhà lên đập 01 cái trúng vào đầu anh Ph; Q lấy 01 chiếc ghế nhựa màu xanh trong quán đập hai, ba cái vào đầu anh Ph làm ghế nhựa bị vỡ; Q vứt chiếc ghế nhựa đã vỡ đi rồi tiếp tục lấy 01 chiếc ghế nhựa khác trong quán đập vào người, vai anh Ph; G nhặt chiếc ghế nhựa vỡ mà Q vừa vứt ra đập vào người anh Ph. Sau đó, P, Q, G và B tiếp tục dùng chân, tay, điếu cày, ghế nhựa đánh anh Ph. Ông Hoàng Xuân U và một số người xung quanh thấy sự việc anh Ph bị đánh đã chạy đến can ngăn thì P, Q, G và B không đánh anh Ph nữa rồi bỏ đi.

Anh Ph được mọi người đưa đến Trung tâm Y tế huyện L cấp cứu, điều trị đến ngày 09/4/2022 chuyển đến Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức - Hà Nội điều trị tiếp, ngày 13/4/2022 chuyển đến Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bắc Giang điều trị đến ngày 15/4/2022 thì ra viện Tại Giấy chứng nhận thương tích số 41/CN ngày 23/5/2022 của Trung tâm Y tế huyện L xác định:

- Anh Hoàng Văn Ph vào viện hồi 19 giờ 07 phút ngày 06/4/2022, ra viện ngày 09/4/2022.

- Tình trạng thương tích lúc vào viện: Vùng thái dương 2 bên có khối sưng nề (2x4)cm; Vùng bàn tay 2 bên có vết xây sát da rỉ máu kèm theo sưng nề, tím vùng mu tay hạn chế vận động; Vùng cẳng tay và cánh tay 2 bên có các vết xây sát da nhỏ từ 3-5cm, vận động bình thường; Đau nhức vùng cổ, lan 2 vai sưng nề ít; Hình ảnh gãy đầu gần đốt 3 ngón 3 tay phải, gãy gai sau C6, C7.

Ngày 29/5/2022, Cơ quan điều tra ra quyết định trưng cầu giám định đối với thương tích của anh Hoàng Văn Ph và xác định cơ chế hình thành thương tích.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 722/22/TgT ngày 21/6/2022 của Trung tâm Pháp y - Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bắc Giang kết luận:

1. Dấu hiệu chính qua giám định:

- Thương tích chạm thương vùng thái dương phải không còn dấu vết: 0% - Thương tích chạm thương vùng thái dương trái không còn dấu vết: 0% - Thương tích chạm thương vùng cánh tay phải không còn dấu vết: 0% - Thương tích chạm thương vùng cánh tay trái không còn dấu vết: 0% - Thương tích chạm thương vùng cẳng tay phải không còn dấu vết: 0% - Thương tích chạm thương vùng cẳng tay trái không còn dấu vết: 0% - Thương tích chạm thương mu tay phải không còn dấu vết + X-quang: Gãy đầu gần đốt bàn 3 bàn tay phải đã can: 6% - Thương tích chạm thương vùng cổ không còn dấu vết + X-quang: Hình ảnh gãy gai sau các đốt C6 và C7: 18% - Thương tích vết sẹo mu tay trái có kích thước (2x0,2)cm: 1% - Thương tích vết sẹo mu tay trái có kích thước (2x0,1)cm: 1% 2. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 24%.

3. Kết luận khác - Vật, cơ chế gây thương tích: Các thương tích do vật tày gây nên, không xác định được chiều hướng gây thương tích.

- Các vật gửi giám định (01 chiếc điếu cày bằng tre, 02 phần chiếc ghế nhựa màu xanh) gây được thương tích cho Hoàng Văn Ph.

Quá trình điều tra vụ án, anh Hoàng Văn Ph giao nộp cho Cơ quan điều tra 01 đĩa DVD-R có dữ liệu video ghi lại diễn biến sự việc. Ngày 24/10/2022, Cơ quan điều tra ra quyết định trưng cầu giám định để xác định nội dung hình ảnh trong các file video và trích xuất một số hình ảnh liên quan đến sự việc.

Tại bản Kết luận giám định số 1970/KL-KTHS ngày 31/10/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang kết luận:

1. Không phát hiện dấu vết cắt ghép nội dung hình ảnh trong các file video được lưu trữ trong đĩa DVD-R gửi giám định có tên sau:

- File video “camera_CAM 1_main_20220406191403_20220406191730.avi”;

dung lượng: 42,1MB; thời lượng: 03 phút 27 giây;

- File video “camera_CAM 2_main_20220406191423_20220406191724.avi”;

dung lượng: 36,7MB; thời lượng: 03 phút 01 giây;

2. Trích xuất được 30 hình ảnh thể hiện diễn biến sự việc có trong các file video gửi giám định.

Cơ quan điều tra đã tiến hành cho Nguyễn Văn P và Nguyễn Đức Q thực nghiệm động tác, tư thế gây thương tích cho anh Hoàng Văn Ph; cho P, Q và anh Ph nhận dạng người qua ảnh và nhận dạng vật chứng thu giữ tại hiện trường. Kết quả thực nghiệm điều tra và nhận dạng phù hợp với lời khai của P, Q và anh Ph.

Quá trình điều tra vụ án Nguyễn Quốc G và Tống Văn B bỏ trốn khỏi nơi cư trú, Cơ quan điều tra đã ra quyết định truy nã đối với B và G, đồng thời ra quyết định tách vụ án, tách hành vi của B và G để điều tra, xử lý sau.

Tại bản Cáo trạng số 29/CT-VKS ngày 05 tháng 5 năm 2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện Lục Nam truy tố các bị cáo Nguyễn Văn P, Nguyễn Đức Q về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 (tình tiết tại điểm a, i khoản 1) Điều 134 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

* Kiểm sát viên phát biểu luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố đối với các bị cáo và đề nghị:

- Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 38, khoản 2 Điều 51 (đối với riêng P) của Bộ luật Hình sự:

+ Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn P từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”, tổng hợp với hình phạt tại bản án số 48/2022/HS-ST ngày 08/9/2022 của Tòa án nhân dân huyện Lục Nam, buộc P phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án từ 06 năm đến 06 năm 06 tháng tù.

+ Xử phạt bị cáo Nguyễn Đức Q từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”.

- Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu 01 chiếc điếu cày bằng tre, 02 phần chiếc ghế nhựa màu xanh bị gãy, vỡ để tiêu hủy.

- Áp dụng Điều 48 của Bộ luật Hình sự, Điều 584 và Điều 590 của Bộ luật Dân sự: Buộc các bị cáo Nguyễn Văn P và Nguyễn Đức Q phải liên đới bồi thường thiệt hại về sức khỏe cho anh Hoàng Văn Ph theo quy định của pháp luật, trong đó mỗi bị cáo phải bồi thường 50%.

- Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn P là thành viên hộ nghèo nên được miễn án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm; bị cáo Nguyễn Đức Q phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

* Bị hại Hoàng Văn Ph trình bày: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, quyết định mức hình phạt đối với các bị cáo theo đúng quy định của pháp luật; đề nghị buộc các bị cáo phải bồi thường thiệt hại do xâm phạm sức khỏe của anh theo quy định của pháp luật; được trừ khoản tiền phương đã bồi thường = 4.600.00 đồng, Tống Văn B đã bồi thường = 20.000.000 đồng.

* Bị cáo Nguyễn Văn P trình bày: Bị cáo nhất trí với nội dung bản Cáo trạng và ý kiến của Kiểm sát viên phát biểu tại phiên tòa; bị cáo bị khởi tố, truy tố, xét xử về tội “Cố ý gây thương tích” là đúng người, đúng tội; bị cáo nhất trí bồi thường cho anh Ph theo quy định của pháp luật; nói lời sau cùng bị cáo xin lỗi người bị hại, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, xử phạt bị cáo mức án thấp nhất để bị cáo được sớm trở về với gia đình và xã hội.

* Bị cáo Nguyễn Đức Q trình bày: Bị cáo nhất trí với nội dung bản Cáo trạng và ý kiến của Kiểm sát viên phát biểu tại phiên tòa; bị cáo bị khởi tố, truy tố, xét xử về tội “Cố ý gây thương tích” là đúng người, đúng tội; bị cáo nhất trí bồi thường cho anh Ph theo quy định của pháp luật; nói lời sau cùng bị cáo xin lỗi người bị hại, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, xử phạt bị cáo mức án thấp nhất, bị cáo hứa sẽ cải tạo để trở thành người công dân tốt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên: Trong quá trình tiến hành tố tụng Điều tra viên, Kiểm sát viên thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn và các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ai tố cáo, khiếu nại gì. Hội đồng xét xử kết luận hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đều đúng quy định và hợp pháp.

[2] Quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa các bị cáo Nguyễn Văn P, Nguyễn Đức Q đều thành khẩn khai báo, lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của người bị hại và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án; đã có đủ cơ sở kết luận: Ngày 06/4/2022 các bị cáo Nguyễn Văn P, Nguyễn Đức Q cùng với các đối tượng Nguyễn Quốc G và Tống Văn B đã thực hiện hành vi dùng điếu cày bằng tre, ghế nhựa và dùng chân, tay đánh liên tiếp vào vùng đầu, cổ, người, tay của anh Hoàng Văn Ph gây nên nhiều thương tích, làm cho anh Ph bị tổn thương cơ thể do thương tích gây nên với tỷ lệ là 24%.

[3] Hành vi của các bị cáo Nguyễn Văn P, Nguyễn Đức Q là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến sức khỏe của anh Hoàng Văn Ph; các bị cáo đều là người có năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi trên của các bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích”. Quá trình điều tra vụ án Nguyễn Quốc G và Tống Văn B đã bỏ trốn, Cơ quan điều tra đã ra quyết định truy nã, tách hành vi của G và B để điều tra, xử lý sau nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Đánh giá động cơ, mục đích và tính chất của hành vi phạm tội thấy: Do anh Hoàng Văn Ph vay tiền của bị cáo Nguyễn Văn P nhưng chưa có tiền trả, P đã rủ Nguyễn Đức Q, Nguyễn Quốc G và Tống Văn B đến nơi ở của anh Ph đòi nợ, khi thấy anh Ph ở nhà P đã nói với Q, G và B cùng đánh anh Ph; khi anh Ph vừa mở cửa nhà đi ra thì P cầm điều cày xông vào đánh anh Ph ngay, sau đó Q, G và B cũng xông vào đánh anh Ph. Hành vi của P, Q và các đồng phạm là rất côn đồ, ngỗ ngược, coi thường kỷ cương pháp luật, coi thường tính mạng, sức khỏe, danh dự người khác; P, Q và các đồng phạm đã sử dụng điếu cày bằng tre, ghế nhựa là những hung khí nguy hiểm để đánh, gây thương tích cho anh Ph với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 24%. Mặc dù các bị cáo P, Q và các đồng phạm cùng cố ý thực hiện một tội phạm nhưng trước khi phạm tội P, Q và các đồng phạm không có sự chuẩn bị, bàn bạc tỉ mỉ, phân công vai trò trách nhiệm của từng người nên không phải phạm tội có tổ chức mà thuộc trường hợp đồng phạm có tính chất giản đơn. Viện kiểm sát nhân dân huyện Lục Nam truy tố các bị cáo Nguyễn Văn P, Nguyễn Đức Q về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 (tình tiết dùng hung khí nguy hiểm và có tính chất côn đồ quy định tại điểm a, i khoản 1) Điều 134 của Bộ luật Hình sự là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[5] Căn cứ vào tính chất, mức độ của hành vi phạm tội và hậu quả xảy ra, cần thiết phải áp dụng hình phạt nghiêm khắc, cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội để cải tạo, giáo dục các bị cáo là đúng với chính sách xử lý của pháp luật hình sự Nhà nước ta.

[6] Xem xét vai trò, các tình tiết áp dụng đối với từng bị cáo để quyết định mức hình phạt thấy: Bị cáo Nguyễn Văn P là người khởi xướng, rủ rê Nguyễn Đức Q và các đồng phạm thực hiện hành vi phạm tội, P cũng là người thực hành quyết liệt nên xác định P là người giữ vai trò chính. Bị cáo Q không có mâu thuẫn gì với anh Ph, khi được P nói đánh cho anh Ph một trận thì Q hưởng ứng ngay và thực hành rất mãnh liệt. Các bị cáo đều không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, đều được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự do có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự; trong thời gian anh Ph nằm viện điều trị P đã bồi thường được một phần cho anh Phòng = 4.600.000 đồng (nhờ người đưa) nên P được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo P là người có nhân thân xấu, sau khi thực hiện hành vi phạm tội lần này, P tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy, đã bị kết án 03 năm tù. Căn cứ vào tính chất, mức độ của hành vi phạm tội mà các bị cáo đã thực hiện và hậu quả xảy ra, hình phạt giành cho các bị cáo trong mức đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp, tương xứng với vai trò của từng bị cáo trong vụ án.

Bị cáo Nguyễn Văn P đang chấp hành hình phạt 03 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy tại bản án số 48/2022/HS-ST ngày 08/9/2022 của Tòa án nhân dân huyện Lục Nam. Vì vậy khi quyết định mức hình phạt đối với Nguyễn Văn P cần phải tổng hợp với hình phạt của bản án trên theo quy định tại khoản 1 Điều 56 của Bộ luật Hình sự.

[7] Về xử lý vật chứng: Quá trình điều tra thu giữ 01 chiếc điếu cày bằng tre, 02 phần của chiếc ghế nhựa màu xanh bị gãy. Xét thấy những đồ vật trên các bị cáo sử dụng làm công cụ phạm tội nhưng không có giá trị nên cần tịch thu để tiêu hủy.

[8] Về trách nhiệm dân sự:

Giai đoạn điều tra anh Hoàng Văn Ph có bản kê khai các khoản thiệt hại do bị đánh, yêu cầu các bị cáo phải bồi thường thiệt hại như sau:

- Chi phí cấp cứu, điều trị tại Trung tâm Y tế huyện L từ ngày 06/4/2022 đến ngày 09/4/2022 = 3.926.000 đồng.

- Chi phí điều trị tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức từ ngày 09/4/2022 đến ngày 13/4/2022 = 23.346.000 đồng.

- Chi phí điều trị tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bắc Giang từ ngày 13/4/2022 đến ngày 15/4/2022 = 4.454.000 đồng.

- Chi phí điều trị tại nhà theo chỉ định của Bác sĩ = 24.000.000 đồng.

- Bồi thường do tổn hại sức khỏe = 40.000.000 đồng.

Tổng cộng anh Ph yêu cầu bồi thường = 97.000.000 đồng.

Giai đoạn truy tố anh Ph kê khai, yêu cầu các bị cáo bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm tổng cộng = 131.000.000 đồng.

Quá trình điều tra, truy tố anh Ph không chứng minh được yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại của mình là có căn cứ và hợp pháp.

Tại phiên tòa, anh Ph giao nộp 01 hóa đơn thanh toán chi phí chẩn đoán hình ảnh, xét nghiệm (kèm theo bảng kê chi phí) của Trung tâm y tế huyện L số tiền chi phí = 677.100 đồng; 02 đơn mua thuốc khi điều trị tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bắc Giang, số tiền mua thuốc và vật tư y tế = 1.851.000 đồng. Anh Ph đề nghị Hội đồng xét xử buộc các bị cáo phải bồi thường thiệt hại về sức khỏe cho anh theo quy định của pháp luật. Anh Ph xác nhận sau khi sự việc xảy ra Nguyễn Văn P đã thông qua một người bạn đưa cho anh được số tiền 4.600.000 đồng; thời gian gần đây gia đình Tống Văn B đã tự nguyện bồi thường cho anh được số tiền là 20.000.000 đồng.

Sau khi xem xét các bảng kê chi phí điều trị nội trú của bệnh nhân Hoàng Văn Ph thấy:

- Điều trị tại Trung tâm Y tế huyện L từ ngày 06/4/2022 đến ngày 09/4/2022, tổng chi phí khám chữa bệnh của đợt điều trị = 1.293.228 đồng; trong đó quỹ Bảo hiểm Y tế thanh toán = 1.293.228 đồng, người bệnh thanh toán 0 đồng.

- Điều trị tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức từ ngày 09/4/2022 đến ngày 13/4/2022, tổng chi phí khám chữa bệnh của đợt điều trị = 4.858.677 đồng; trong đó quỹ Bảo hiểm y tế thanh toán = 4.541.773 đồng, người bệnh thanh toán 316.904 đồng.

- Điều trị tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bắc Giang từ ngày 13/4/2022 đến ngày 15/4/2022, tổng chi phí khám chữa bệnh của đợt điều trị = 1.371.500 đồng; trong đó quỹ Bảo hiểm Y tế thanh toán = 1.317.900 đồng, người bệnh thanh toán 53.600 đồng.

Như vậy, anh Ph phải chi phí điều trị thương tích tại các bệnh viện tổng cộng = 370.504 đồng. Ngoài ra anh Ph phải trả tiền chi phí dịch vụ tại Trung tâm Y tế huyện L = 677.100 đồng; mua thuốc và vật tư y tế ngoài bệnh án tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bắc Giang = 1.851.000 đồng. Tổng cộng các khoản chi phí tại các bệnh viện, chi phí dịch vụ, mua thuốc và vật tư y tế = 2.898.604 đồng.

Căn cứ vào yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại và tình trạng thương tích của anh Hoàng Văn Ph; căn cứ quy định tại Điều 584 và Điều 590 của Bộ luật Dân sự, cần buộc các bị cáo phải bồi thường cho anh Ph các khoản như sau:

- Chi phí trong thời gian điều trị thương tích tại các bệnh viện tổng cộng = 2.898.604 đồng.

- Tiền thuê xe từ Trung tâm y tế huyện L đến Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức – Hà Nội = 2.600.000 đồng.

- Tiền thuê xe từ Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức – Hà Nội đến Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bắc Giang = 1.400.000 đồng.

- Tiền thuê xe từ Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bắc Giang về nhà = 500.000 đồng.

- Tiền bồi dưỡng trong thời gian nằm viện = 2.000.000 đồng.

- Bồi dưỡng phục hồi sức khỏe sau khi ra viện = 15.000.000 đồng - Thu nhập bị mất trong thời gian nằm viện (10 ngày) và sau khi ra viện chưa lao động được 50 ngày, cộng = 60 ngày (02 tháng). Mức thu nhập của anh Phòng trong 06 tháng liền kề trước khi bị đánh là 7.200.000 đồng/ 01 tháng. Như vậy tiền mất thu nhập trong 02 tháng là: 7.200.000 đồng x 02 tháng = 14.400.000 đồng.

- Thu nhập bị mất của 01 người nuôi dưỡng trong thời gian anh Ph nằm viện là 10 ngày. Tính bằng mức thu nhập bình quân tại địa phương nơi cư trú (xã Tam Dị) là 55.000.000 đồng/ 01 người/ 01 năm : 12 tháng = 4.583.000đồng/ 01 người/ 01 tháng (30 ngày). Như vậy, thu nhập của 01 người nuôi dưỡng bị mất trong thời gian 10 ngày = 1.617.600đồng.

- Khoản tiền bù đắp tổn thất tinh thần tính bằng 15 tháng lương cơ sở x 1.490.000 đồng = 22.350.000 đồng.

Tổng cộng các khoản thiệt hại của anh Hoàng Văn Ph xác định = 62.766.204 đồng, làm tròn = 62.766.000 đồng.

Anh Hoàng Văn Ph đã được Nguyễn Văn P bồi thường = 4.600.000 đồng, Tống Văn B (là đồng phạm với P và Q đang bị điều tra, xử lý trong vụ án khác) bồi thường = 20.000.000 đồng. Như vậy, anh Ph còn bị thiệt hại là 38.166.000 đồng, cần buộc P và Q phải liên đới bồi thường cho anh Ph, các bị cáo thống nhất mỗi bị cáo bồi thường 50% = 19.083.000 đồng.

Các bị cáo P, Q và các đồng phạm khác gây thiệt hại về sức khỏe cho anh Ph nếu không thỏa thuận tự giải quyết về trách nhiệm bồi hoàn thì có quyền khởi kiện vụ án dân sự yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

[8] Về án phí: Theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội thì bị cáo Nguyễn Văn P được miễn án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm (là thành viên hộ nghèo); bị cáo Nguyễn Đức Q phải chịu án phí hình sự sơ thẩm = 200.000 đồng; án phí dân sự sơ thẩm 19.083 .000 đồng x 5% = 954.000 đồng (đã làm tròn).

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1- Áp dụng điểm đ khoản 2 (tình tiết tại điểm a, i khoản 1) Điều 134, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 58, Điều 38, khoản 1 Điều 56 của Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn P 03 (ba) năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Tổng hợp với hình phạt tại bản án số 48/2022/HS-ST ngày 08/9/2022 của Tòa án nhân dân huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang; buộc bị cáo Nguyễn Văn P phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 06 (sáu) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 21/4/2022.

2- Áp dụng điểm đ khoản 2 (tình tiết tại điểm a, i khoản 1) Điều 134, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58, Điều 38 của Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Đức Q 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

3- Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu 01 chiếc điếu cày bằng tre, 02 phần chiếc ghế nhựa màu xanh bị gãy, vỡ để tiêu hủy Những vật chứng nêu trên có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan điều tra và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lục Nam.

4- Áp dụng Điều 48 của Bộ luật Hình sự; Điều 584, Điều 590 của Bộ luật Dân sự:

Buộc các bị cáo Nguyễn Văn P và Nguyễn Đức Q phải liên đới bồi thường thiệt hại cho anh Hoàng Văn Ph do xâm phạm sức khỏe = 38.166.000 đồng (Ba mươi tám triệu, một trăm sáu mươi sáu nghìn đồng chẵn). Trong đó mỗi bị cáo phải bồi thường 50% = 19.083.000 đồng (Mười chín triệu, không trăm tám mươi ba nghìn đồng chẵn).

* Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền chậm thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 và Điều 468 của Bộ luật Dân sự.

* Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

5- Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 6, điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội:

Miễn án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm cho bị cáo Nguyễn Văn P.

Bị cáo Nguyễn Đức Q phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 954.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm; cộng = 1.154.000 đồng (Một triệu, một trăm năm mươi tư nghìn đồng chẵn).

Bị cáo, bị hại có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có 15 ngày kháng cáo, kể từ ngày nhận được bản án xét xử vắng mặt.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

138
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 35/2023/HS-ST

Số hiệu:35/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lục Nam - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:28/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về