TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH PHÚ THỌ
BẢN ÁN 35/2022/HS-PT NGÀY 15/04/2022 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Trong các ngày 14 và ngày 15 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ đưa ra xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 19/2022/TLPT-HS ngày 01 tháng 3 năm 2022 do có kháng cáo của người bị hại đối với Bản án hình sơ thẩm số 10/2022/HS-ST ngày 25 tháng 01 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố VT, tỉnh Phú Thọ.
* Bị cáo bị kháng cáo:
Họ và tên: Nguyễn Trung K; sinh ngày: 19/12/1967; Nơi cư trú: Khu 7, xã TV, thành phố VT, tỉnh Phú Thọ; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 7/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông Nguyễn Hữu N (đã chết) và bà Lê Thị S, sinh năm 1939; có vợ là Nguyễn Thị Kim NH, sinh năm 1972 và có 02 con (con lớn sinh năm 1992, con nhỏ sinh năm 1995).
Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo không bị tạm giữ, tạm giam, bị cáo bị cấm đi khỏi nơi cư trú, hiện tại ngoại ở khu 7, xã TV, thành phố VT, tỉnh Phú Thọ. (Có mặt).
* Bị hại: Bà Nguyễn Thị TH, sinh năm 1959 ; Nơi ĐKHKTT: Khu 7, xã TV, thành phố VT, tỉnh Phú Thọ. (Có mặt).
Người kháng cáo: Bị hại bà Nguyễn Thị TH.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 15 giờ ngày 04/9/2021, Nguyễn Trung K đang ở trong nhà thì nghe thấy tiếng bà Nguyễn Thị Kim Nhan là vợ của Nguyễn Trung K đang cãi nhau với bà Nguyễn Thị TH về việc bà TH chăn thả bò tại ruộng rau trước nhà mình. Nguyễn Trung K từ trong nhà đi ra đường nhựa liên khu trước nhà thì thấy bà Nhan và bà TH vẫn đang cãi nhau. Tại đây, K và bà TH có xảy ra cãi vã, to tiếng với nhau, K nhặt ba viên gạch ở gốc cây gần đó ném về phía bà TH nhưng không trúng. Bà TH và K tiếp tục cãi nhau, thách thức đánh nhau, K đã chạy vào nhà, lấy trong tủ đựng đồ của gia đình 01 “súng” cao su tự chế, thân “súng” bằng gỗ hình chữ Y dài 13,5cm, hai đầu “súng” được buộc vào 02 sợi dây cao su, 02 đầu dây cao su buộc vào 01 miếng da màu đen. Tổng chiều dài của “súng” là 28cm, chiều rộng là 06cm và 05 viên bi bằng kim loại dạng hình cầu, có đường kính là 0,7cm, bề ngoài hoen rỉ. Sau đó, K chạy ra vị trí đường bê tông liên khu giữa 02 cây bàng đối diện với nhà K, K đứng cách bà TH khoảng 15m. Khi bà TH đang cúi xuống để cắt rau thì K cầm “súng” bằng tay phải và cầm 05 viên bi bằng kim loại bên tay trái, K dùng tay trái cho viên bi vào miếng da đen ở giữa hai sợi dây chun và kéo về sau bắn về phía bà TH. K bắn bà TH liên tiếp 05 lần, mỗi lần là 01 viên bi. Bị K bắn bi trúng vào cổ bàn tay phải, mu bàn tay phải và 02 chân (đùi) của mình nên bà TH đã đến trình báo sự việc với ông Trưởng khu 7, xã TV, thành phố VT và đến Trạm y tế xã TV để sơ cứu vết thương. Sau đó đến Bệnh viện đa khoa tỉnh Phú Thọ để điều trị đến ngày 14/9/2021 thì ra viện.
Thương tích ban đầu của bà Nguyễn Thị TH được xác định: 01 vết thương mu bàn tay phải kích thước 0,5cm; vết thương cổ tay phải kích thước nhỏ, chảy máu, bàn tay phải sưng nề nhiều, hạn chế vận động bằng ngón tay; chân phải có ba điểm tụ máu (vùng gối và đùi phải); đùi trái có hai điểm bầm tụ máu. Kết quả X quang hình ảnh: Gẫy xương bàn tay ngón 2 bàn tay phải, còn dị vật kim khí bàn tay phải.
Sau khi gây thương tích cho bà Nguyễn Thị TH, K về nhà. Đến ngày 13/9/2021, Công an xã TV chuyển hồ đơn tố giác về tội phạm đến Cơ quan điều tra Công an thành phố VT để giải quyết theo thẩm quyền.
Ngày 01/10/2021 Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an thành phố VT, tỉnh Phú Thọ ra Quyết định trưng cầu giám định để xác định tỷ lệ thương tích của bà Nguyễn Thị TH. Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 201/TgT/2021 ngày 07/10/2021 của Trung tâm Pháp y - Sở y tế tỉnh Phú Thọ, kết luận:
Căn cứ vào kết quả khám giám định bà Nguyễn Thị TH:
- Vết thương số một: 01% - Vết số hai (bao gồm cả vết mổ): 01%.
- Vết thương số ba: 01% - Gãy xương đốt bàn ngón 2 tay bên phải chưa can xương: 09%
- Vết thâm da số một: 0,5%.
- Vết thâm da số hai: 0,5%.
- Vết thâm da số ba: 0,5%.
- Vết thâm da số bốn: 0,5%.
- Vết thâm da số năm: 0,5%.
Áp dụng phương pháp cộng tại thông tư: 13,88%, Làm tròn 14%.
Kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể của bà Nguyễn Thị TH là 14% (Mười bốn phần trăm).
- Cơ chế hình thành vết thương:
+ Vết thương số 1 và 05 vết thâm da, gãy xương đốt bàn ngón 2 tay bên phải: Do tác động của vật cứng có bề mặt tương đối nhẵn có kích thước các chiều tương đối bằng nhau giống dạng hình cầu gây nên.
+ Vết thương số 2 (bao gồm cả vết mổ): Không xác định cơ chế gây thương tích do Bác sỹ đã phẫu thuật đi qua vết thương.
+ Vết thương số 3: Do bác sỹ làm phẫu thuật điều trị.
Tại Cơ quan điều tra bị cáo K khai nhận toàn bộ về hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên. Vì vậy K phải chịu trách nhiệm hình sự về thương tích mà K đã gây ra cho bà TH.
Quá trình điều tra bà TH đã giao nộp vật chứng là 01 viên bi bằng kim loại bị gỉ sét có đường kính là 0,7cm (quá trình phẫu thuật Bác sỹ lấy ra từ tay của bà TH). Bị cáo Nguyễn Trung K giao nộp 01 “súng” cao su, thân “súng” bằng gỗ hình chữ Y dài 13,5cm, hai đầu “súng” được buộc vào 02 sợi dây cao su, 02 đầu dây cao su buộc vào 01 miếng da màu đen. Tổng chiều dài của “súng” là 28cm, chiều rộng là 06cm. Hiện đang bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố VT.
Về trách nhiệm dân sự: Nguyễn Trung K và bà TH không thống nhất được vấn đề bồi thường. Bà TH không yêu cầu K bồi thường khoản chi phí cụ thể nào, bà TH yêu cầu giải quyết vấn đề dân sự theo quy định của pháp luật (Bà TH đã nộp lại toàn bộ hoá đơn, chứng từ nộp tiền điều trị tại Bệnh viện).
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 10/2022/HS-ST ngày 25 tháng 01 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố VT, tỉnh Phú Thọ đã Quyết định:
Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65; điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 1 Điều 584; Điều 585; khoản 1 Điều 590 Bộ luật Dân sự.
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Trung K phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Trung K 30 (Ba mươi) tháng tù cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 60 (Sáu mươi) tháng. Thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận sự tự nguyện bồi thường của bị cáo Nguyễn Trung K cho người bị hại là bà Nguyễn Thị TH tổng số tiền là 30.000.000đ (Ba mươi triệu đồng). (Theo biên lai thu tiền số AA/2020/0006967 ngày 17/01/2022 và số AA/2020/0006781 ngày 25/01/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố VT, tỉnh Phú Thọ).
Bản án còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí, quyền kháng cáo theo đúng quy định của pháp luật.
Ngày 28/01/2022, Bị hại bà Nguyễn Thị TH có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm và yêu cầu cấp phúc thẩm giải quyết những vấn đề sau:
Vấn đề thứ nhất: Hành động mang tính chất côn đồ hung hãn, đê hèn, giã man muốn truy sát bà đến chết. Bị cáo K ném 03 viên gạch, bắn liên tiếp 7 phát đạn làm gãy xương mu bàn tay chứ nếu viên đạn đó trúng vào sọ não bà thì bà chết rồi. Bị cáo là đàn ông lại đi bắn người phụ nữ già yếu, không có khả năng tự vệ, chống cự là rất giã man, đê hèn không có tính người.
Vấn đề thứ hai: Ý thức đạo đức con người, sau khi hành hung người gà yếu không có sức kháng cự còn chưa một lần xin lỗi, thăm hỏi. Bôi nhọ gia đình bà ăn vạ và đi tới đâu cũng không sợ, hẳn là đã có người bao che, chống lưng. Coi thường pháp luật, coi thường tính mạng con người.
Vấn đề thứ ba: Nguyên nhân động cơ gây án. Gia đình bà đã làm đơn và bản tường trình gửi trực tiếp cho ông Đỗ Cao Vân. Đề nghị quý tòa kiểm tra xem xét; là người phụ nữ già yếu bà không ngại gì đi thách thức một kể thô lỗ, cục cằn, coi thường pháp luật; bà thách thức dùng lời nói thô tục là không có, đề nghị quý tòa cho bằng chứng.
Vấn đề thứ tư: Tại sao bà muốn có ý kiến quý tòa ngăn không cho bà có quyền phản ánh, bắt bà phải nghe theo sự sếp đặt của tòa, phải chăng có sự mờ ám.
Tại phiên tòa phúc thẩm: Người bị hại bà Nguyễn Thị TH giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và trình bày bổ sung kháng cáo là cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 30 tháng tù cho hưởng án treo là không tương xứng với hành vi của bị cáo, bà đề nghị giải quyết đúng theo quy định của pháp luật; Việc bồi thường hao tổn 14% sức khỏe chưa tương xứng với sức khỏe của bà bị giảm sút. Bà đề nghị giải quyết đúng theo quy định của pháp luật.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Thọ trình bày quan điểm giải quyết vụ án. Đề nghị Hội đồng xét xử:
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự. Không chấp nhận kháng cáo của bị hại bà Nguyễn Thị TH. Giữ nguyên Quyết định của Bản án hình sự sơ thẩm số 10/2022/HS-ST ngày 25 tháng 01 năm 2022 Tòa án nhân dân thành phố VT, tỉnh Phú Thọ.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của bà Nguyễn Thị TH làm trong hạn luật định được xem xét, giải quyết.
[2] Về nội dung vụ án: Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Trung K thừa nhận đã có hành vi phạm tội của mình như nội dung vụ án đã nêu trên. Lời khai của bị cáo phù hợp lời khai của người bị hại, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thể hiện khoảng 15 giờ 00 phút ngày 04/9/2021 tại khu 7, xã TV, thành phố VT, tỉnh Phú Thọ, do mâu thuẫn cá nhân, Nguyễn Trung K đã dùng “súng” cao su tự chế và 05 viên bi bằng kim loại là hung khí nguy hiểm bắn vào cổ bàn tay phải, mu bàn tay phải và 02 chân (đùi) của bà TH, gây tổn hại sức khỏe cho bà TH với tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể là 14%.
Như vậy, có đủ căn cứ xác định bị cáo Nguyễn Trung K phạm tội: “Cố ý gây thương tích” quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự. Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.
[3] Xét kháng cáo của bị hại là bà Nguyễn Thị TH, Hội đồng xét xử xét thấy: Do bị cáo Nguyễn Trung K và bà Nguyễn Thị TH có mâu thuẫn với nhau từ trước nên bị cáo mới thực hiện hành vi phạm tội, do vậy việc bà TH đề nghị xử lý bị cáo với tình tiết có tính chất côn đồ, hung hãn, đê hèn, dã man là không có căn cứ; bà TH cho rằng bị cáo phạm tội với người già, không có khả năng tự vệ chống cự là rất dã man, đê hèn. Theo quy định của Bộ luật Hình sự thì bà chưa đến 70 tuổi nên chưa được coi là phạm tội đối với người già, bị cáo phạm tội và gây tổng tỷ lệ thương tích cho bà 14% sức khỏe nên việc kháng cáo và đề nghị của bà không được chấp nhận. Mặt khác, bà trình bày có người bao che, chống lưng cho bị cáo nhưng bà không cung cấp được chứng cứ nên không có căn cứ để giải quyết.
Việc bà kháng cáo và đề nghị xem xét về hình phạt 30 tháng tù cho hưởng án treo đối với bị cáo là không tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo gây thương tích 14% sức khỏe, bà đề nghị giải quyết đúng theo quy định của pháp luật. Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo có nhân thân tốt chưa có tiền án, tiền sự. Sau khi phạm tội bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo tự nguyện bồi thường cho người bị hại, bản thân bị cáo đã có thời gian phục vụ trong Quân đội đã được tặng kỷ niệm chương, bị cáo có bố đẻ là người có công với cách mạng. Do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú rõ ràng nên cấp sơ thẩm cân nhắc và quyết định hình phạt đối với bị cáo là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật. Do vậy việc bà kháng cáo về hình phạt đối với bị cáo là không được chấp nhận.
Việc bà kháng cáo và đề nghị cấp sơ thẩm buộc bị cáo bồi thường hao tổn 14% sức khỏe cho bà là không tương xứng với thiệt hại sức khỏe của bà. Hội đồng xét xử xét thấy cấp sơ thẩm buộc bị cáo bồi thường tổn thất về tinh thần và tổn thất 14% sức khỏe cho bà số tiền 10.450.000đ là chưa phù hợp, cần phải buộc bị cáo bồi thường, bồi dưỡng tỷ lệ 14% sức khỏe tương ứng với số tiền bà TH điều trị tại bệnh viện là 11.893.706đ và bồi thường tổn thất về tinh thần cho bà TH 05 tháng lương tối thiểu là 7.450.000đ là phù hợp. Đối với những phần cấp sơ thẩm đã quyết định bà TH không có kháng cáo đề nghị xem xét gồm các khoản công chị Huệ và chị Hương thay nhau chăm sóc bà TH điều trị tại bệnh viện là 3.000.000đ; 10 ngày bà TH mất thu nhập do điều trị vết thương là 3.000.000đ; Tiền viện phí + tiền thuốc bà TH phải điều trị từ ngày 04/9/2021 đến ngày 14/9/2021 là 11.893.706đ cấp phúc thẩm không xem xét giữ nguyên như quyết định của Bản án sơ thẩm.
Như vậy, cần buộc bị cáo bồi thường tổng thiệt hại về thương tích cho bà TH số tiền 37.237.412đ. Do bị cáo đã tự nguyện nộp số tiền 30.000.000đ tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố VT để bồi thường cho bà TH, bị cáo còn phải bồi thường cho bà TH 7.237.412đ. Việc bà TH kháng cáo về vấn đề này là có căn cứ cần được chấp nhận cần sửa một phần về trách nhiệm bồi thường dân sự của bản án của cấp sơ thẩm.
[4] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Thọ giữ nguyên về hình phạt đối với bị cáo theo bản án cấp sơ thẩm là phù hợp nên chấp nhận. Việc đề nghị của đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên về trách nhiệm bồi thường dân sự theo như bản án cấp sơ thẩm là chưa phù hợp nên không được chấp nhận.
[5] Về án phí phúc thẩm:
Kháng cáo của bà Nguyễn Thị TH được chấp nhận một phần nên bà TH không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Bị cáo Nguyễn Trung K phải chịu án phí dân sự trong án hình sự theo quy định của pháp luật
[6] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị, Hội đồng xét xử phúc thẩm không xem xét.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
[1] Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm b khoản 2 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự đối với bị cáo Nguyễn Trung K.
Chấp nhận một phần kháng cáo của bị hại bà Nguyễn Thị TH. Sửa một phần Quyết định của Bản án hình sự sơ thẩm số 10/2022/HSST ngày 28 tháng 01 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố VT, tỉnh Phú Thọ về trách nhiệm bồi thường dân sự đối với bà Nguyễn Thị TH.
[2] Về tội danh:
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Trung K phạm tội "Cố ý gây thương tích".
[3] Về điều luật áp dụng và hình phạt:
Căn cứ vào điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Nguyễn Trung K.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Trung K 30 (Ba mươi) tháng tù cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 60 (Sáu mươi) tháng. Thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Giao bị cáo Nguyễn Trung K cho Ủy ban nhân dân xã TV, thành phố VT, tỉnh Phú Thọ để giám sát, giáo dục. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương nơi cư trú của người bị kết án trong việc giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ hai lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt của bản án đã cho hưởng án treo.
[4] Về trách nhiệm dân sự:
Căn cứ khoản 1 Điều 584; Điều 585; khoản 1 Điều 590 Bộ luật Dân sự:
Buộc bị cáo Nguyễn Trung K phải bồi thường toàn bộ thiệt hại về thương tích cho bà Nguyễn Thị TH số tiền 37.237.412đ (Ba mươi bảy triệu hai trăm ba mươi bảy nghìn bốn trăm mười hai đồng). Xác nhận bị cáo Nguyễn Trung K đã nộp số tiền là 30.000.000đ (Ba mươi triệu đồng) theo biên lai thu tiền số AA/2020/0006967 ngày 17/01/2022 và biên lai thu tiền số AA/2020/0006781 ngày 25/01/2022 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố VT, tỉnh Phú Thọ. Bị cáo Nguyễn Trung K còn phải bồi thường cho bà Nguyễn Thị TH số tiền 7.237.412đ (Bảy triệu hai trăm ba mươi bảy nghìn bốn trăm mười hai đồng).
Kể từ khi án có hiệu lực pháp luật, người phải thi hành án không thi hành án, người được thi hành án có đơn đề nghị thi hành án thì người phải thi hành án phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo quy định tại Điều 357 và khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự, tương ứng với thời gian chậm trả.
[5] Về án phí: Áp dụng khoản 4 Điều 21; khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội.
Bà Nguyễn Thị TH không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Bị cáo Nguyễn Trung K phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự trong án hình sự.
“Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự”.
[6] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./
Bản án về tội cố ý gây thương tích số 35/2022/HS-PT
Số hiệu: | 35/2022/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Phú Thọ |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 15/04/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về