Bản án về tội cố ý gây thương tích số 34/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KBANG -TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 34/2023/HS-ST NGÀY 19/12/2023 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 19/12/2023, tại trụ sở TAND huyện Kbang, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 33/2023/HS-ST ngày 14/11/2023 đối với các bị cáo:

1. Ngô Thiên V, tên gọi khác: T1, sinh ngày 13/11/2005 tại: K, Gia Lai; nơi thường trú: Làng T, xã S, huyện K, tỉnh Gia Lai; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; tiền án, tiền sự: Không; con ông Ngô Văn Q1 và bà Trương Thị Tú Q2; bị cáo hiện đang bị cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.

2. Hoàng Trung K, sinh ngày 25/10/2004 tại: K, Gia Lai; nơi thường trú: Làng T, xã S, huyện K, tỉnh Gia Lai; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; tiền án, tiền sự: Không; con ông Hoàng Văn G và bà Lê Thị H1; bị cáo hiện đang bị cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.

3. Nguyễn Văn M, tên gọi khác: C1, sinh ngày 07/8/2002 tại: K, Gia Lai; nơi thường trú: Thôn X, xã S, huyện K, tỉnh Gia Lai; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 9/12; tiền án, tiền sự: Không; con ông Nguyễn Văn C và bà Hoàng Thị H2;

bị cáo hiện đang bị cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.

* Người đại diện hợp pháp của bị cáo Ngô Thiên V: Bà Trương Thị Tú Q2, sinh năm 1980;

Địa chỉ: Làng T, xã S, huyện K, tỉnh Gia Lai (có mặt).

*Người bào chữa cho các bị cáo Ngô Thiên V và Hoàng Trung K: Bà Cao Thị My S - Trợ giúp viên pháp lý Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Gia Lai (có mặt).

* Người bị hại: Anh Đoàn Việt A, sinh ngày 08/01/2004;

Địa chỉ: Thôn x, xã S, huyện K, tỉnh Gia Lai (có mặt).

*Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Lê Thị H1, sinh năm 1977;

Địa chỉ: Làng T, xã S, huyện K, tỉnh Gia Lai (có mặt).

2. Ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1982;

Địa chỉ: Thôn Y, xã S, huyện K, tỉnh Gia Lai (có mặt).

*Người làm chứng:

1. Anh Đặng Thanh T, sinh năm 1981 (vắng mặt);

2. Anh Nông Quốc Đ, sinh năm 2005 (vắng mặt);

Cùng địa chỉ: Thôn X, xã S, huyện K, tỉnh Gia Lai.

3. Chị Nguyễn Thị S1, sinh năm 1986;

Địa chỉ: Thôn X, xã S, huyện , tỉnh Gia Lai (vắng mặt).

4. Anh Huỳnh Đình C2, sinh năm 2004;

Địa chỉ: Thôn X, xã S, huyện K, tỉnh Gia Lai (vắng mặt).

5. Ông Đoàn Trọng B, sinh năm 1978 (có mặt);

6. Bà Phạm Thị H3, sinh năm 1980 (có mặt);

Cùng địa chỉ: Thôn Y, xã S, huyện K, tỉnh Gia Lai.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Tối ngày 24/12/2022, Nguyễn Văn M, trú tại: Thôn X, xã S, huyện K, tỉnh Gia Lai ngồi uống nước tại quán cà phê T ở cùng thôn. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày thì có Ngô Thiên V và Hoàng Trung K, đều trú tại xã S đến quán và ngồi cùng bàn với M. Do biết giữa V và Đoàn Việt A, trú tại: Thôn Y, xã S có mâu thuẫn đánh nhau trước đó nên M kể lại cho V, K nghe việc thấy A đến quán cà phê T nhưng đã đi về. Nghe M nói vậy, V cũng nói trên đường đi đến quán cà phê T, V có gặp A ở ngã ba Bình Thường thuộc thôn X, xã S cho M và K nghe. Do có mâu thuẫn và nghĩ A sẽ tìm đánh mình nên V nói với K và M: “Đứa nào có dao hay gậy gì không cho tao mượn đi tìm đánh nó, không nó đánh tao”. Nghe V nói vậy, K đã cùng V đi tìm cây ở trước quán cà phê nhưng không có, M đi về nhà lấy 01 con dao (dài 53,9cm, cán gỗ bọc khâu sắt dài 16,4cm, đường kính 3,5cm, lưỡi dao dài 37,5cm, bản rộng nhất 05cm, bản nhỏ nhất 2,5cm) đem đến quán đưa cho V, V giấu dao sau lưng quần với mục đích nếu gặp A thì sẽ dùng dao chém; sau đó, V rủ K đi xuống thôn 4, xã S đánh bida.

K sử dụng xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại WINER, BKS 81H1-269.xx chở V đi về hướng thôn Y, xã S; M nghĩ V, K đi tìm A để đánh nên cũng điều khiển xe đi theo. Khi đi qua quán cà phê AD thuộc thôn X, xã S thì V thấy xe của A dựng ở trước, V nói với K: “Mày dừng xe, tao vào xem có thằng A ở trong đó không để đánh nó”. Nghe vậy, K dừng xe lại cho V đi vào quán cà phê tìm A; M cũng dừng xe lại, đứng trước cổng quán cà phê. Khi vào quán, V thấy A đang ngồi ở ghế uống nước, V tiến lại vị trí A đang ngồi, dùng tay phải rút dao giấu sẵn ở lưng quần chém từ trên xuống hai nhát trúng vào đầu gối trái của A, A rút gậy ba khúc từ trong người ra đánh lại V nhưng không trúng. Lúc này, K cũng đi vào quán còn M vẫn đứng ở cổng quán. Khi thấy A dùng gậy ba khúc đánh lại V thì K xông vào giật gậy ba khúc của A, A ngã khụy xuống, K để mặc cho V tiếp tục dùng dao chém tiếp 01 nhát vào đầu gối phải và dùng bản dao đánh vào người A. Thấy A bị V dùng dao chém bị thương nên anh Đặng Thanh T, trú tại: Thôn Y, xã S đến can ngăn thì V, K và M đi về lại quán cà phê T. A được người nhà đưa đi cấp cứu tại Trung tâm Y tế huyện Kbang, sau đó được chuyển viện điều trị tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Định, đến ngày 31/12/2022 thì ra viện.

Ngày 03/01/2023, Đoàn Việt A tố giác hành vi gây thương tích của Ngô Thiên V và đồng phạm đến Công an huyện Kbang. Sau khi nhận tin, Cơ quan Cảnh sát điều tra (CSĐT) Công an huyện Kbang tiến hành điều tra, xác minh.

Ngày 10/5/2023, Cơ quan CSĐT Công an huyện Kbang ra Quyết định trưng cầu giám định số: 06/QĐ để giám định mức độ thương tích, tổn hại sức khỏe của Đoàn Việt A.

Tại Kết luận giám định số: 245/KLTTCT-TTPY ngày 05/6/2023 của Trung tâm giám định pháp y tỉnh Gia Lai, kết luận thương tích của Đoàn Việt A như sau:

“1. Các kết quả chính:

- 01 sẹo vết thương phần mềm mặt ngoài gối phải.

- 01 sẹo mổ dẫn lưu mặt trong gối phải.

- 01 sẹo vết thương phần mềm + sẹo mổ hình chữ “Z” mặt trước 1/3 trên cẳng chân trái.

- 01 sẹo mổ dẫn lưu mặt trong gối trái.

- Chấn thương gây vỡ mâm chày bên trái đã phẫu thuật kết hợp xương phục hồi tốt, khớp gối vận động trong giới hạn bình thường.

- Vết thương phức tạp gối phải gây đứt bán phần gân bánh chè đã khâu nối phục hồi tốt.

2. Kết luận:

Căn cứ Thông tư 22/2019/TT-BYT ngày 28/8/2019 của Bộ y tế quy định tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần, xác định tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của Đoàn Việt A tại thời điểm giám định là: 22% (hai mươi hai phần trăm), áp dụng phương pháp cộng tại Thông tư”.

Quá trình điều tra, Cơ quan Công an đã tạm giữ của Nguyễn Văn M 01 con dao dài 53,9cm, cán gỗ bọc khâu sắt dài 16,4cm, đường kính 3,5cm, lưỡi dao dài 37,5cm, bản rộng nhất 05cm, bản nhỏ nhất 2,5cm, đây là con dao M đưa cho Ngô Thiên V mượn để chém gây thương tích cho A;

Tạm giữ của Đoàn Việt A 01 gậy ba khúc dài 63,5cm, cán được bọc bằng nhựa cao su màu đen, A dùng để chống trả lại V;

Tạm giữ của Hoàng Trung K 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA loại WINNER, màu sơn đen, BKS 81H1-269.xx được K sử dụng chở Ngô Thiên V đi tìm A chém gây thương tích. Qua điều tra đã xác định đây là xe của bà Lê Thị H1 là mẹ của K, khi mua xe bà H1 không có giấy phép lái xe nên lấy tên con Hoàng Trung K để làm thủ tục mua xe. Hiện con dao, cây gậy ba khúc và xe mô tô BKS 81H1-269.xx có đặc điểm nêu trên, Cơ quan CSĐT Công an huyện Kbang đang tạm giữ để giải quyết theo quy định của pháp luật.

Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA loại SIRIUS, màu sơn đen, gắn BKS 81H1-115.xx, Cơ quan điều tra tạm giữ của Nguyễn Văn M, M sử dụng vào việc tham gia gây thương tích cho Đoàn Việt A, qua điều tra xác định đây là tài sản của ông Nguyễn Văn C là cha của M, ông C không biết việc M sử dụng xe vào việc phạm tội. Ngày 19/10/2023, Cơ quan điều tra đã xử lý vật chứng trả xe mô tô trên cho ông C quản lý, sử dụng.

Về trách nhiệm dân sự: Sau khi gây thương tích cho anh Đoàn Việt A, các bị cáo đã tác động gia đình bồi thường cho người bị hại số tiền là 155.000.000 đồng (V là 145.000.000 đồng, K và M mỗi bị cáo là 5.000.000 đồng), anh A đã nhận đủ tiền bồi thường và không yêu cầu gì thêm.

Tại Bản cáo trạng số: 31/CT-VKS ngày 14/11/2023, VKSND huyện Kbang, tỉnh Gia Lai đã truy tố Ngô Thiên V, Hoàng Trung K và Nguyễn Văn M về tội: ”Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 BLHS năm 2015.

Tại phiên toà, đại diện VKSND huyện Kbang, tỉnh Gia Lai vẫn giữ nguyên quyết định truy tố các bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như Bản cáo trạng đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) tuyên bố các bị cáo Ngô Thiên V, Hoàng Trung K và Nguyễn Văn M phạm tội: “Cố ý gây thương tích”.

Đề nghị áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, các Điều 38, 58 và 65 của BLHS đối với ba bị cáo; áp dụng thêm các Điều 54, 90, 91 và 101 của BLHS đối với bị cáo V; để xử phạt bị cáo Ngô Thiên V từ 01 năm 06 tháng tù đến 01 năm 10 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 03 năm đến 03 năm 08 tháng tính từ ngày tuyên án (ngày 19/12/2023); xử phạt các bị cáo Hoàng Trung K và Nguyễn Văn M từ 02 năm đến 02 năm 04 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 04 năm đến 04 năm 08 tháng tính từ ngày tuyên án (ngày 19/12/2023).

Về xử lý vật chứng: Đề nghị tuyên tịch thu tiêu hủy 01 gậy ba khúc dài 63,5cm, có cán được bọc bằng nhựa cao su màu đen và 01 con dao dài 53,9cm, cán gỗ bọc khâu sắt dài 16,5cm, đường kính 3,5cm, lưỡi dao dài 37,5cm, bản rộng nhất 05cm, bản nhỏ nhất 2,5cm.

Đề nghị tuyên trả lại bà Lê Thị H1 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda loại Winner, biển kiểm soát 81H1-269.xx.

Về án phí: Buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm (HSST) theo quy định pháp luật.

Tại phiên tòa, các bị cáo Ngô Thiên V, Hoàng Trung K và Nguyễn Văn M khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung Bản cáo trạng đã nêu, không tranh luận gì với đại diện Viện kiểm sát, tỏ thái độ ăn năn hối cải và xin giảm nhẹ hình phạt.

Người bào chữa cho bị cáo Ngô Thiên V và Hoàng Trung K trình bày nội dung bào chữa:

Nhất trí với nội dung VKSND huyện Kbang đã truy tố đối với các bị cáo Ngô Thiên V và Hoàng Trung K, đề nghị HĐXX xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của hai bị cáo trước khi quyết định hình phạt, đó là: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, hai bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; hai bị cáo đã tác động gia đình bồi thường đầy đủ theo yêu cầu của người bị hại, người bị hại đã xin bãi nại và giảm nhẹ hình phạt cho hai bị cáo; bị cáo V có ông ngoại là người có công với cách mạng, đang hưởng chế độ thương binh hạng ¾; đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS. Ngoài ra, trước thời gian bị cáo V phạm tội thì bị cáo đã bị người bị hại Đoàn Việt A chặn đánh trên đường đi học về nên bị cáo cần được xem là nạn nhân của bạo lực học đường, bị cáo phạm tội khi chưa đủ 18 tuổi nên cần áp dụng chính sách hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội quy định tại các Điều 90, 91 BLHS. Vì vậy, đề nghị HĐXX xem xét xử phạt bị cáo K dưới 02 năm tù nhưng cho hưởng án treo, xử phạt bị cáo V với mức thấp nhất mà Viện kiểm sát đã đề nghị và cho bị cáo được hưởng án treo.

Người đại diện hợp pháp của bị cáo Ngô Thiên V bà Trương Thị Tú Q2 trình bày xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại phiên tòa, người bị hại anh Đoàn Việt A không yêu cầu bồi thường gì thêm và xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Tại phiên toà, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Lê Thị H1 xin nhận lại chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda loại Winner, biển kiểm soát 81H1-269.xx.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan CSĐT Công an huyện Kbang, Điều tra viên, VKSND huyện Kbang, KSV trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS). Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo Ngô Thiên V, người bào chữa cho bị cáo Ngô Thiên V và Hoàng Trung K, người bị hại và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có người nào ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo Ngô Thiên V, Hoàng Trung K và Nguyễn Văn M đã khai nhận phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan CSĐT Công an huyện Kbang và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, qua đó xác định rằng:

Xuất phát từ mâu thuẫn cá nhân giữa Ngô Thiên V và Đoàn Việt A nên vào tối ngày 24/12/2022, trong lúc uống nước tại quán cà phê T thuộc thôn X, xã S, V kể lại sự việc A đã nhiều lần chặn đánh V cho Hoàng Trung K và Nguyễn Văn M nghe. Sau đó, V đã cùng K và M đi tìm A đánh. Khi đến quán cà phê A Đỏ thuộc thôn X, xã S, V đã sử dụng con dao do M cho mượn dài 53,9cm, cán gỗ bọc khâu sắt dài 16,4 cm, đường kính 3,5cm, lưỡi dao dài 37,5cm, bản rộng nhất 05cm, bản nhỏ nhất 2,5cm chém A. Khi thấy A dùng gậy ba khúc chống trả lại V thì K đã xông vào giật lấy gậy ba khúc của A để cho V tiếp tục đánh, chém A gây tổn hại sức khỏe cho Đoàn Việt A theo giám định với tỷ lệ là 22% Mặc dù tỷ lệ tổn thương cơ thể của anh Đoàn Việt A là 22% nhưng do các bị cáo đã sử dụng con dao làm công cụ phạm tội, đây là hung khí nguy hiểm nên hành vi của các bị cáo đã phạm vào tội: “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 BLHS như truy tố của VKSND huyện Kbang là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Hành vi của các bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến sức khỏe của người khác một cách trái pháp luật và làm ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự tại địa phương. Khi thực hiện hành vi phạm tội, các bị cáo nhận thức và làm chủ được hành vi của mình, các bị cáo biết được việc gây thương tích cho người khác là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện với lỗi cố ý. Trong vụ án này, Ngô Thiên V khi phạm tội là người chưa thành niên nhưng lại giữ vai trò chính, là người khởi xướng, trực tiếp cầm dao chém gây thương tích cho người bị hại; Hoàng Trung K và Nguyễn Văn M là người đã thành niên nhưng lại phạm tội với vai trò đồng phạm, giúp sức tích cực. Vì vậy, HĐXX thấy cần thiết phải xử lý nghiêm và có mức án tương xứng đối với hành vi phạm tội của các bị cáo.

Tuy nhiên, xét các bị cáo phạm tội đồng phạm giản đơn, không có tình tiết tăng nặng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đó là: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đã thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải; các bị cáo đã tác động gia đình bồi thường đầy đủ theo yêu cầu của người bị hại; người bị hại cũng có đơn bãi nại, xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo; gia đình bị cáo V có công với cách mạng, ông ngoại là thương binh hạng ¾; đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS. Ngoài ra, bị cáo V phạm tội khi chưa đủ 18 tuổi nên nhận thức pháp luật còn nhiều hạn chế, cần áp dụng chính sách hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội quy định tại các Điều 90 và 91 BLHS đối với bị cáo.

Xét các bị cáo nhất thời phạm tội, phạm tội không có tình tiết tăng nặng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; các bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, chưa từng bị kết án, quá trình sinh sống tại địa phương luôn chấp hành đầy đủ chính sách, pháp luật của Nhà nước và nghĩa vụ công dân nơi cư trú; trong thời gian tại ngoại, các bị cáo không có hành vi bỏ trốn hay vi phạm pháp luật nên có khả năng tự cải tạo cao và không cần thiết phải cách ly ra ngoài xã hội. Vì vậy, để thể hiện sự khoan hồng của pháp luật, tạo điều kiện cho các bị cáo có cơ hội cải tạo trở thành người tốt, HĐXX chấp nhận đề nghị của VKSND huyện Kbang và của người bào chữa cho bị cáo K và bị cáo V, áp dụng Điều 65 của BLHS cho các bị cáo được hưởng án treo là cũng đủ tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Do các bị cáo đang cư trú tại xã S, huyện Kbang nên cần giao các bị cáo cho Ủy ban nhân dân (UBND) xã S để giám sát, giáo dục các bị cáo trong thời gian thử thách. Riêng bị cáo V khi phạm tội là người chưa thành niên nên được áp dụng thêm Điều 54 BLHS cho bị cáo được hưởng mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt quy định tại khoản 2 Điều 134 BLHS và cho hưởng án treo là thỏa đáng và đúng pháp luật.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Các bị cáo đã tác động gia đình bồi thường đầy đủ theo yêu cầu của người bị hại Đoàn Việt A, anh A không có yêu cầu bồi thường gì thêm nên HĐXX không xem xét đến nữa.

[5] Về xử lý vật chứng: Xét các vật chứng là 01 gậy ba khúc dài 63,5cm, có cán được bọc bằng nhựa cao su màu đen và 01 con dao dài 53,9cm, cán gỗ bọc khâu sắt dài 16,5cm, đường kính 3,5cm, lưỡi dao dài 37,5cm, bản rộng nhất 05cm, bản nhỏ nhất 2,5cm không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu huỷ.

Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda loại Winner, biển kiểm soát 81H1- 269.xx, loại xe hai bánh từ 50-175 cm3, màu sơn đen, số loại KC440 Winnerx, dung tích xi lanh 149 cm3 là xe của mẹ bị cáo K là bà Lê Thị H1, bà H1 không biết việc K sử dụng xe vào việc phạm tội nên cần trả lại chiếc xe này cho bà H1.

[6] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Ngô Thiên V, Hoàng Trung K và Nguyễn Văn M phạm tội:“Cố ý gây thương tích”.

- Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; các Điều 38, 58 và 65 của Bộ luật hình sự đối với 03 bị cáo; áp dụng thêm các Điều 54, 90, 91 và 101 của BLHS đối với bị cáo Ngô Thiên V;

Xử phạt bị cáo Ngô Thiên V 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 03 (ba) năm tính từ ngày tuyên án (ngày 19/12/2023).

Xử phạt bị cáo Hoàng Trung K 02 (hai) năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 04 (bốn) năm tính từ ngày tuyên án (ngày 19/12/2023).

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn M 02 (hai) năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 04 (bốn) năm tính từ ngày tuyên án (ngày 19/12/2023).

Giao các bị cáo cho UBND xã S, huyện K, tỉnh Gia Lai giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình các bị cáo có trách nhiệm phối hợp với UBND cấp xã trong việc giám sát, giáo dục các bị cáo.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ hai lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

- Áp dụng Điều 47 của BLHS và Điều 106 của BLTTHS;

Tuyên tịch thu tiêu huỷ 01 gậy ba khúc dài 63,5cm, có cán được bọc bằng nhựa cao su màu đen và 01 con dao dài 53,9cm, cán gỗ bọc khâu sắt dài 16,5cm, đường kính 3,5cm, lưỡi dao dài 37,5cm, bản rộng nhất 05cm, bản nhỏ nhất 2,5cm.

Tuyên trả cho bà Lê Thị H1 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda loại Winner, biển kiểm soát 81H1-269.xx, loại xe hai bánh từ 50-175 cm3, màu sơn đen, số loại KC440 Winnerx, dung tích xi lanh 149 cm3, số máy KC34E5040574, số khung RLHKC4407NY020840, hiện trạng xe đã qua xử dụng.

(Đặc điểm cụ thể của vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 01/12/2023 giữa Công an huyện Kbang và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kbang) - Áp dụng khoản 2 Điều 136 của BLTTHS và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án;

Buộc các bị cáo Ngô Thiên V, Hoàng Văn K và Nguyễn Văn M mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí HSST.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 19/12/2023), các bị cáo, người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền làm đơn kháng cáo đề nghị TAND tỉnh Gia Lai xét xử phúc thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

5
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 34/2023/HS-ST

Số hiệu:34/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện KBang - Gia Lai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về