Bản án về tội cố ý gây thương tích số 34/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HOÀ AN, TỈNH CAO BẰNG

BẢN ÁN 34/2023/HS-ST NGÀY 16/08/2023 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 16 tháng 8 năm 2023 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Hoà An, Cao Bằng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 31/2023/TLST- HS ngày 28 tháng 7 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 33/2023/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 8 năm 2023 đối với bị cáo:

Đàm Đình D; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày 04 tháng 4 năm 1996 tại xã N, huyện H, tỉnh Cao Bằng;

Nơi cư trú: Xóm C, xã N, huyện H, tỉnh Cao Bằng.

Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 09/12; Dân tộc: Tày; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đàm Văn K và bà Hoàng Thị T; Có vợ Lương Thị H và có 02 con;

Tiền án: Không; Tiền sự: 01 tiền sự; Ngày 12/5/2023 bị Công an huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Cố ý gây thương tích bằng hình thức Phạt tiền.

Nhân thân: Ngày 22/11/2017, bị Công an phường Ngọc Xuân, thành phố Cao Bằng xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Sử dụng trái phép chất ma tuý bằng hình thức Cảnh cáo; Ngày 06/9/2018, bị Công an huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Sử dụng máy kích điện để đánh bắt cá trái phép bằng hình thức Phạt tiền.

Bị cáo bị bắt, tạm giam từ ngày 16/6/2023 đến nay; Có mặt.

- Bị hại: Anh Nguyễn Đức T1; Sinh năm 1997 Nơi cư trú: Xóm V, xã N, huyện H1, tỉnh Cao Bằng. Có mặt 1981

 - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Hoàng Văn H1; Sinh năm Nơi cư trú: Xóm N, xã N, huyện H1, tỉnh Cao Bằng. Có mặt

- Những người làm chứng:

1. Anh Lục Nông D1; Sinh năm 1999 Nơi cư trú: Xóm V, xã N, huyện H1, tỉnh Cao Bằng. Có mặt

2. Anh Phan Thế D2; Sinh năm 1996. Vắng mặt

3. Chị Mã Thị H2; Sinh năm 1997. Vắng mặt

Cùng nơi cư trú: Xóm 7, B, thị trấn N, huyện H1, tỉnh Cao Bằng.

4. Anh Trần Văn H3; Sinh năm 1997 Nơi cư trú: Xóm G, xã N, huyện H, tỉnh Cao Bằng. Có mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào ngày 21/5/2023, bị cáo Đàm Đình D, Nguyễn Đức T1 (Sinh năm 1997), Lục Nông D1 (Sinh năm 1999) cùng trú tại: Xóm V, xã N, huyện H1, tỉnh Cao Bằng và Trần Văn H3 (Sinh năm 1997, trú tại: Xóm G, xã N, huyện H, tỉnh Cao Bằng) cùng nhau hát Karaoke tại quán Vò Lầu Homestay của anh Hoàng Văn H (Sinh năm 1981, trú tại: Xóm N, xã N, huyện H1, tỉnh Cao Bằng). Đến khoảng 20 giờ 00 phút, giữa bị cáo và H3 xảy ra tranh cãi, thấy vậy T1 nói với bị cáo “Mày say rồi thì về đi, đừng làm loạn ở đây" rồi bước ra ngoài nhờ anh H1 bảo bị cáo đi về. Bị cáo bước theo sau nghe thấy vậy rất bực tức, do đã uống rượu không làm chủ được bản thân nên bị cáo chửi, đuổi T1 quanh khu vực bàn ăn rồi lần lượt cầm 01 (Một) vỏ chai bia bằng thủy tinh và 01 (Một) ghế bằng kim loại ném thẳng về phía T1 nhưng đều không trúng. Bị cáo tiếp tục đuổi theo, dùng tay đánh vào vai T1, cầm 01 (Một) ghế kim loại định ném về phía T1 nhưng H1 đến can ngăn giữ lại được chiếc ghế. Tiếp đó, T1 chạy về phía cầu thang, bị cáo đuổi theo thì nhìn thấy trên mặt bàn uống nước cạnh đó có 01 (Một) con dao nhọn bằng kim loại, có cán nhựa màu vàng (Loại dao gọt hoa quả) nên đã cầm lấy con dao đuổi theo rồi đâm 01 (Một) nhát vào phần mềm vùng mạn sườn trái sau lưng của T1. Sau đó, bị cáo cầm dao quàng vào cổ T1 và nói “Mày thích chết không?”. Lúc này có H1 chạy đến can ngăn thì T1 chạy ra khỏi quán và gọi điện thoại báo Công an, còn bị cáo giắt con dao vào cạp quần rồi tiếp tục ngồi tại quán. Đến 22 giờ 00 phút cùng ngày, Công an xã N đến lập biên bản đối với vụ việc trên. Cơ quan điều tra đã tiến hành thu giữ vật chứng có liên quan là 01 (Một) con dao bằng kim loại, màu trắng, 02 (Hai) ghế bằng kim loại màu vàng nâu đen và 01 (Một) túi nilon bên trong có chứa nhiều mảnh thuỷ tinh màu xanh.

Tại Bản kết luận giám định tổn thương cơ thể trên người sống số 095/KLTTCT-TTPY ngày 05/6/2023 của Trung tâm pháp y tỉnh Cao Bằng kết luận: “1. Các kết quả chính:

* Kết quả giám định:

- Vết sẹo phần mềm vùng mạn sườn trái, kích thước nhỏ: 01%.

2. Kết luận:

Căn cứ Thông tư số 22/2019/TT-BYT ngày 28 tháng 8 năm 2019 của Bộ Y tế quy định tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần, xác định tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của Nguyễn Đức T1 tại thời điểm giám định là: 01% (Một phần trăm).

- Cơ chế hình thành tổn thương: Do tác động của vật sắc nhọn gây nên.” Tại bản cáo trạng số 31/CT-VKSHA ngày 26/7/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hoà An, Cao Bằng đã truy tố bị cáo Đàm Đình D về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm a, i khoản 1 Điều 134 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Đàm Đình D thừa nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung Cáo trạng đã truy tố; bị cáo nhận thức được hành vi gây thương tích cho người khác là sai, vi phạm pháp luật.

Trong quá trình điều tra và tại phiên toà, bị hại Nguyễn Đức T1 trình bày: Những nội dung bị cáo đã trình bày là chính xác. Về trách nhiệm dân sự, tại phiên toà anh và bị cáo đã tự nguyện thoả thuận được số tiền bị cáo phải bồi thường cho anh là 6.000.000đ (Sáu triệu đồng). Về trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, xử phạt bị cáo theo quy định của pháp luật.

Tại phiên toà người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Hoàng Văn H1 trình bày: Những nội dung bị cáo đã trình bày là chính xác. Về trách nhiệm dân sự, anh không yêu cầu bị cáo phải bồi thường. Về việc xử lý vật chứng, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét hoàn trả 02 (Hai) chiếc ghế đã thu giữ là tài sản của cá nhân tại quán Vò Lầu Homestay.

Lời khai của những người làm chứng tại Cơ quan điều tra và tại phiên toà phù hợp với lời trình bày của bị cáo và đúng với nội dung Cáo trạng đã phản ánh.

Khi luận tội bị cáo, Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a, i khoản 1 Điều 134; điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo từ 09 (Chín) đến 12 (Mười hai) tháng tù; Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị Hội đồng xét xử công nhận sự tự nguyện thỏa thuận giữa bị cáo và bị hại về việc bị cáo có trách nhiệm bồi thường cho bị hại số tiền 6.000.000đ (Sáu triệu đồng); Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không yêu cầu bị cáo bồi thường nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét; Về việc xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu, tiêu hủy 01 (Một) con dao là vật chứng của vụ án và 01 (Một) túi nilon bên trong có chứa nhiều mảnh thuỷ tinh màu xanh; Hoàn trả cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Hoàng Văn H1 02 (Hai) ghế kim loại màu vàng nâu đen. Ngoài ra, Kiểm sát viên còn đề nghị buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Tại phần tranh luận, bị cáo không có ý kiến gì với bản luận tội của Kiểm sát viên về tội danh cũng như mức hình phạt. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến, yêu cầu gì thêm. Khi nói lời sau cùng, bị cáo mong Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo mức hình phạt thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Hòa An, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo, các yếu tố cấu thành tội phạm:

Tại phiên tòa bị cáo nhận tội, lời khai của bị cáo và những người tham gia tố tụng phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, xác định:

Ngày 21/5/2023 do đã uống rượu, không làm chủ được bản thân nên bị cáo Đàm Đình D đã có hành vi dùng tay đánh và dùng dao đâm vào phần mềm vùng mạn sườn trái sau lưng của Nguyễn Đức T1, gây tỷ lệ thương tích là 01% (Một phần trăm). Bị cáo sử dụng dao nhọn thuộc loại hung khí nguy hiểm đâm vào người bị hại; chỉ vì lời nhắc nhở của bị hại mà bị cáo đã có hành vi đuổi, đánh và dùng dao đâm bị hại thể hiện tính chất côn đồ trong hành vi phạm tội của bị cáo. Từ những nhận định và các chứng cứ nêu trên đã có đầy đủ căn cứ để kết luận bị cáo Đàm Đình D phạm tội Cố ý gây thương tích theo điểm a, i khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm đã trực tiếp xâm phạm đến sức khỏe của con người được pháp luật bảo hộ, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trên địa bàn. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và nhận thức được hành vi gây thương tích cho người khác là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn thực hiện hành vi với lỗi cố ý. Ngoài ra, bị cáo phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, có 01 (Một) tiền sự và có nhân thân xấu, nhiều lần bị cơ quan Công an xử phạt vi phạm hành chính nên Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn trên mức khởi điểm của khung hình phạt mới đủ sức giáo dục, răn đe hành vi phạm tội của bị cáo và phòng ngừa chung đối với xã hội.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo toàn bộ hành vi phạm tội, thể hiện sự ăn năn hối cải của bản thân. Do đó, bị cáo được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên toà, bị cáo và bị hại đã thoả thuận được mức bồi thường thiệt hại, việc thoả thuận của bị cáo và bị hại là tự nguyện không trái với quy định pháp luật. Do vậy, Hội đồng xét xử công nhận nội dung tự nguyện thỏa thuận giữa bị cáo và bị hại về việc bị cáo có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bị hại số tiền là 6.000.000đ (Sáu triệu đồng);

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không yêu cầu bị cáo bồi thường nên Hội đồng xét xử không đặt vấn đề xem xét.

[5] Mức hình phạt Kiểm sát viên đề nghị áp dụng đối với bị cáo là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử, phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội và đặc điểm nhân thân của bị cáo nên được chấp nhận.

[6] Về việc xử lý vật chứng:

- Đối với 01 (Một) con dao bằng kim loại, màu trắng: Đây là công cụ phạm tội nên cần tịch thu, tiêu hủy là phù hợp với quy định của pháp luật;

- Đối với 01 (Một) túi nilon bên trong có chứa nhiều mảnh thuỷ tinh màu xanh không rõ hình, là mảnh vỡ của chai bia thuỷ tinh bị cáo dùng để ném bị hại. Đây là phương tiện phạm tội của bị cáo nên cần tịch thu tiêu huỷ là phù hợp với quy định của pháp luật;

- Đối với 02 (Hai) ghế kim loại màu vàng nâu đen là đồ dùng của quán Vò Lầu Homestay thuộc sở hữu của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Hoàng Văn H1 nên cần phải trả cho anh H1 là phù hợp với quy định của pháp luật.

[7] Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và Điều 23 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

[8] Về quyền kháng cáo: Căn cứ các Điều 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo, bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Đàm Đình D phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

2. Về điều luật áp dụng và hình phạt đối với bị cáo:

Áp dụng điểm a, i khoản 1 Điều 134, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo.

Xử phạt bị cáo Đàm Đình D 09 (Chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính kể từ ngày bị cáo bị bắt giữ, ngày 16/6/2023.

3. Về trách nhiệm dân sự: Công nhận sự tự nguyện thỏa thuận giữa bị cáo và bị hại về việc bị cáo Đàm Đình D có trách nhiệm bồi thường cho bị hại anh Nguyễn Đức T1 (Sinh năm 1997, trú tại: Xóm V, xã N, huyện H1, tỉnh Cao Bằng) số tiền là 6.000.000đ (Sáu triệu đồng).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Hoàng Văn H1 không yêu cầu bị cáo bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật và người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, người phải thi hành án phải chịu lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự đối với khoản tiền chậm thi hành án, tương ứng với thời gian chậm thi hành án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

4. Về xử lý vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu huỷ 01(Một) con dao bằng kim loại màu trắng, dao có một lưỡi sắc, đầu dao nhọn, có cán nhựa màu vàng, chiều dài 20cm, bản rộng 02cm và 01 (Một) túi nilon bên trong có chứa nhiều mảnh thuỷ tinh màu xanh không rõ hình.

- Hoàn trả cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Hoàng Văn H1 (Sinh năm 1981; trú tại Xóm N, xã N, huyện H1, tỉnh Cao Bằng) 02 (Hai) ghế bằng kim loại màu vàng nâu đen, loại ghế có dựa lưng.

Xác nhận số vật chứng trên đã được chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 27/7/2023.

5. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Đàm Đình D phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch sung công quỹ Nhà nước.

6. Về quyền kháng cáo: Căn cứ các Điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền và nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

74
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 34/2023/HS-ST

Số hiệu:34/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hoà An - Cao Bằng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:16/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về