Bản án về tội cố ý gây thương tích số 306/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 306/2023/HS-ST NGÀY 28/09/2023 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 28 tháng 9 năm 2023, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh T xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 257/2023/TLST-HS ngày 30 tháng 8 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 284/2023/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 9 năm 2023 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lưu Thế N; tên gọi khác: không; sinh ngày 17 tháng 5 năm 1990; giới tính: Nam; trú tại: Xóm Đ, xã S, thành phố T, tỉnh T; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Sán Dìu; Tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: 12/12; nghề nghiệp: Không; con ông: Lưu Văn C, sinh năm 1965, con bà: Lăng Thị N1, sinh năm 1968; gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất; vợ, con chưa có.

- Tiền án: 02 + Tại Bản án số 44/2016/HSST ngày 30/6/2016, Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh T xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Ra trại ngày 07/02/2017. Nộp xong án phí ngày 27/10/2016.

+ Tại Bản án số 527/2018/HSST ngày 24/12/2018, Tòa án nhân dân thành phố T xử phạt 48 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Ra trại ngày 02/12/2021. Nộp xong án phí ngày 23/3/2022.

- Tiền sự: Không - Nhân thân:

+ Tại Quyết định số 08/QĐ-XPHC ngày 28/4/2011 của Công an xã S, Lưu Thế N bị xử phạt 1.500.000đ về hành vi trộm cắp tài sản. Nộp phạt ngày 09/5/2011.

+ Tại Quyết định số 712/QĐ-UBND ngày 18/4/2013, Ủy ban nhân dân tỉnh T đã quyết định đưa vào cơ sở giáo dục đối với Lưu Thế N, thời hạn 24 tháng. Lưu Thế N đã trốn thi hành. Ngày 21/5/2013, Công an huyện P đã ra quyết định số 278/QĐ-TT về việc truy tìm đối với Lưu Thế N. Ngày 11/9/2015, Công an huyện P đà ra Thông báo số 740/TB về việc đình chỉ thi hành quyết định truy tìm đối với N.

+ Tại Quyết định số 34814/QĐ-XPHC ngày 25/10/2018, Công an thành phố T quyết định xử phạt vi phạm hành chính số tiền 6.000.000 đồng về hành vi “Xâm hại sức khỏe của người khác” và “Hủy hoại tài sản của người khác”. Lưu Thế N chưa nộp phạt.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 08/5/2023 cho đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại Tạm giam Công an tỉnh T (có mặt).

* Những người tham gia tố tụng khác:

- Bị hại: Anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1978.

HKTT: Xóm Đ, xã S, thành phố T, tỉnh T (vắng mặt)

- Người làm chứng:

+ Chị Nguyễn Thị Hải L, sinh năm: 1988.

HKTT: Xóm Đ, xã S, thành phố T, tỉnh N (vắng mặt)

+ Chị Nguyễn Thanh L1, sinh năm 1982 HKTT: Xóm Đ, xã S, thành phố T, tỉnh N (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ 30 phút, ngày 05/3/2023, anh Nguyễn Văn H (sinh năm: 1978, HKTT: Xóm Đ, xã S, thành phố T, tỉnh T) đến quán cơm “Quán L” tại xóm Đ, xã S, T chị Nguyễn Thị Hải L (sinh năm: 1988, HKTT: xóm Đ, xã S, thành phố T) làm chủ để hỏi vay tiền của chị L nhưng chị L không đồng ý cho vay. Sau đó, anh H ngồi vào bàn uống nước, do có uống rượu từ trước nên anh H chửi bới những người có mặt trong quán. Lúc này, Lưu Thế N cũng đang ở quán cơm của chị L, N nhắc nhở anh H dẫn đến anh H và N xảy ra mâu thuẫn, cãi chửi nhau. Sau đó, anh H cầm 01 chiếc điếu cày màu nâu, kích thước dài 65cm, đường kính 4cm, miệng điếu cày được bọc kim loại sáng màu để ở bàn uống nước vụt 01 cái vào lưng của N, N bực tức nên ngay lập tức dùng tay phải cầm 01 cốc thủy tinh để ở bàn uống nước ném trúng vào đầu anh H gây thương tích ở đỉnh đầu và vành tai trái của anh H. Sao đó, N bỏ đi còn anh H được đưa đến Bệnh viện A cấp cứu và trình báo Cơ quan Công an đến giải quyết.

- Tại Bản kết luận giám định số 308/KLTTCT-GĐTH ngày 12/4/2023 của Trung tâm Pháp y Sở Y tế tỉnh T kết luận: Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của Nguyễn Văn H tại thời điểm giám định là 3%. Cơ chế hình thành thương tích là do vật cứng có góc cạnh.

- Tại Bản kết luận giám định số 320/KLTTCT-GĐTH ngày 14/4/2023 của Trung tâm pháp y tỉnh T kết luận: Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của Lưu Thế N tại thời điểm giám định là 0%.

Về phần dân sự: Bị hại anh Nguyễn Văn H không yêu cầu bị cáo phải bồi thường.

Vật chứng vụ án là: 01 (một) điếu cày, màu nâu, kích thước dài 65cm, đường kính 4cm, miệng điếu cày được bọc kim loại sáng màu, đã qua sử dụng; 02 (hai) mảnh vỡ thủy tinh, kích thước khoảng (4x4)cm và (3x3)cm.

Tại bản cáo trạng số 263/CT-VKSTPTN ngày 30/8/2023 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố T, tỉnh T đã truy tố Lưu Thế N về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm d khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố T sau khi phân tích nội dung vụ án, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội cũng như nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo đã giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lưu Thế N phạm tội “Cố ý gây thương tích”:

Đề nghị áp dụng điềm d khoản 2 Điều 134, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Lưu Thế N từ 24 đến 30 tháng tù.

Vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 (một) điếu cày, màu nâu, kích thước dài 65cm, đường kính 4cm, miệng điếu cày được bọc kim loại sáng màu, đã qua sử dụng; 02 (hai) mảnh vỡ thủy tinh, kích thước khoảng (4x4)cm và (3x3)cm.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại anh Nguyễn Văn H không yêu cầu bị cáo bồi thường nên không xem xét.

- Về án phí: Đề nghị áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định.

Trong phần tranh luận, bị cáo không có ý kiến gì tranh luận với đại diện Viện Kiểm sát.

Trong phần lời nói sau cùng, bị cáo xin được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng: Quá trình khởi tố vụ án, điều tra, truy tố và xét xử, Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác trong vụ án không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2]. Về nội dung vụ án:

Khoảng 13 giờ 30 phút, ngày 05/3/2023, tại quán C1” thuộc xóm Đ, xã S, thành phố T, anh Nguyễn Văn H được Lưu Thế N nhắc nhở về việc anh H chửi bới tại quán, anh H đã cầm 01 chiếc điếu cày vụt 01 cái vào lưng của N, N bực tức nên ngay lập tức dùng tay phải cầm 01 cốc thủy tinh để ở bàn uống nước ném trúng vào đầu anh H. Hậu quả anh H bị thương tích ở đỉnh đầu và vành tai trái với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 3% (ba phần trăm). Về phần dân sự, bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản xác định hiện trường, các biên bản làm việc, bản kết luận giám định, phù hợp với lời khai của bị hại, những người người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Hành vi nêu trên của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã cố ý xâm phạm trực tiếp đến sức khỏe của người khác một cách trái pháp luật, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội. Bị cáo đã có 02 tiền án chưa được xóa án tính nên lần phạm tội này của bị cáo là yếu tố định khung hình phạt đối với bị cáo. Hành vi đó đủ yếu tố cấu thành tội cố ý gây thương tích theo điểm d khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự nên cần phải được xét xử nghiêm minh bằng pháp luật hình sự, có mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội để cải tạo giáo dục riêng bị cáo, đồng thời răn đe, phòng ngừa tội phạm chung. Do vậy, bản cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố T đã truy tố Lưu Thế N về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm d khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

Nội dung Điều 134 Bộ luật hình sự quy định như sau:

1. “Người nào c ý gây thương tích hoặc gây tn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tn thương cơ th từ 11 % đến 30%..., thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a. Dùng ...hung khí nguy hiểm...;

......

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 02 năm đến 06 năm:

a)...

...

d) Tái phạm nguy hiểm;” ...

[3]. Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, Hội đồng xét xử thấy:

Bị cáo có nhân thân xấu, bị xử phạt hành chính nhiều lần; đã có 2 tiền án về tội Trộm cắp tài sản và tội cố ý gây thương tích và đã phải chấp hành hình phạt tù của cả hai bản án nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để tu dưỡng, rèn luyện bản thân mà tiếp tục có hành vi phạm tội, điều đó chứng tỏ bị cáo rất coi thường pháp luật.

Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Tại thời điểm xảy ra sự việc, anh H đã có hành vi trái pháp luật là dùng điếu cày vụt vào lưng bị cáo làm kích động đến trạng thái tinh thần của bị cáo dẫn đến bị cáo có hành vi gây thương tích cho anh H. Xét thấy, trong trường hợp này, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra quy định tại điểm e khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Bị cáo có 02 tiền án chưa được xóa án tích nhưng 02 tiền án này đã được áp dụng là yếu tố định khung hình phạt theo điểm d khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự nên bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Trên cơ sở xem xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, Hội đồng xét xử thấy, cần áp dụng mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, buộc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.

[4]. Vật chứng của vụ án: Đối với 01 (một) điếu cày, màu nâu, kích thước dài 65cm, đường kính 4cm, miệng điếu cày được bọc kim loại sáng màu, đã qua sử dụng; 02 (hai) mảnh vỡ thủy tinh, kích thước khoảng (4x4)cm và (3x3)cm là vật chứng của vụ án, không có giá trị và giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu bị cáo phải bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[6] Về án phí, quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm sung quỹ Nhà nước theo quy định tại Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/ƯBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Cần tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

Xét đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát tại phiên tòa về việc áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 51 là không phù hợp, cần áp dụng điểm e khoản 1 Điều 51 như đã nhận định trên đây. Tuy nhiên, về mức hình phạt và các nội dung khác mà đại diện Viện Kiểm sát đề nghị áp dụng đối với bị cáo là có căn cứ chấp nhận.

Đối với anh Nguyễn Văn H có hành vi dùng điếu cày đánh vào lưng Lưu Thế N, kết quả giám định thương tích đối với N là 0%. Do hành vi của anh H không cấu thành tội phạm nên Công an thành phố T đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số tiền 6.500.000 đồng về hành vi “Cố ý gây thương tích nhưng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự” đối với Nguyễn Văn H là phù hợp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 134; điểm e, s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự;

Tuyên bố: Bị cáo Lưu Thế N phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Xử phạt: Lưu Thế N 30 (ba mươi) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 08/5/2023.

Áp dụng Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự, tiếp tục tạm giam bị cáo 45 (bốn mươi lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

2. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) điếu cày, màu nâu, kích thước dài 65cm, đường kính 4cm, miệng điếu cày được bọc kim loại sáng màu, đã qua sử dụng; 02 (hai) mảnh vỡ thủy tinh, kích thước khoảng (4x4)cm và (3x3)cm.

(Số vật chứng trên, hiện bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục thi hành án dân sự thành phố T. Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng số 452 ngày 25/9/2023 giữa cơ quan Công an T và Chi cục Thi hành án dân sự TP T ) 3. Án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Bị cáo Lưu Thế N phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm nộp ngân sách Nhà nước.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

59
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 306/2023/HS-ST

Số hiệu:306/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:28/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về