Bản án về tội cố ý gây thương tích số 30/2024/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 30/2024/HS-PT NGÀY 19/03/2024 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 19 tháng 3 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đ xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 222/2023/TLPT-HS ngày 25 tháng 10 năm 2023 đối với bị cáo Phạm Duy H; do có kháng cáo của bị cáo và bị hại đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 178/2023/HS-ST ngày 25/8/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Đ.

Bị cáo kháng cáo: Phạm Duy H, sinh năm: 1996 tại Đ; nơi ĐKHKTT và cư trú: số 61A đường PĐTV, Phường 8, thành phố Đ, tỉnh Đ; nghề nghiệp: nha sĩ; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm M và bà Lâm Thị Mỹ L; có vợ là Nguyễn Thị Hoài Th, sinh năm: 1995 và 01 người con, sinh năm: 2022; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo tại ngoại. Có mặt.

Bị hại kháng cáo: Anh Đinh Tiến C, sinh năm: 1989; nơi cư trú: 63 PĐTV, Phường 8, thành phố Đ, tỉnh Đ. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ ngày 11-3-2022, anh Đinh Tiến C điều khiển xe ô tô về nhà tại hẻm 63 PĐTV, Phường 8, thành phố Đ, khi đi xuống hẻm anh C thấy một số xe máy đậu đỗ ngoài đường phía trước nhà ông Phạm M làm cản lối đi của anh C, sau khi đậu xe xong anh C nói ông M “Tôi bỏ tiền làm đường để ông đậu xe như thế này hả”, lúc này con trai ông M là Phạm Duy H nghe thấy vậy liền chạy ra nói chuyện với anh C, hai bên xảy ra mâu thuẫn cãi nhau thì anh C dùng chân đạp vào người H 01 cái làm H té ngã ra sau. Do bực tức bị anh C đạp ngã nên H chạy vào nhà kho lấy 01 con dao bằng kim loại dài 40 cm chạy ra đến phía cổng nhìn thấy bên đường có 01 thanh kim loại dài khoảng 30 cm, H dùng tay trái nhặt thanh kim loại đó rồi chạy đến chỗ anh C hỏi anh C tại sao chửi bố mình thì anh C dùng tay đấm vào mặt H một cái, sau đó anh C tiếp tục tiến tới định ôm vật H xuống đường thì H sử dụng dao đang cầm trên tay chém 01 nhát trúng vào vùng trán bên phải của anh C. Sau khi bị H chém anh C vẫn tiếp tục lao về phía H nên H tiếp tục dùng dao đang cầm trong tay phải chém 01 nhát trúng vào vùng trán bên phải của anh C. Anh C lao tới phía H, đè H xuống đất dùng tay đấm vào mặt H 02 cái, sau đó dùng tay định tước con dao trong tay H nhưng không tước được nên dao trong tay H cứa vào vùng ngón tay của anh C. Lúc này tay phải H vẫn đang cầm dao, cây kim loại trên tay trái của H bị rớt xuống đường. Sau đó H chạy vào nhà còn anh C được đưa đến bệnh viện Đa khoa tỉnh Lâm đồng cấp cứu và điều trị.

Vật chứng thu giữ: 01 con dao bằng kim loại màu trắng bạc dài 40 cm, rộng 05 cm.

Ngày 12-5-2023 Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đ có bản kết luận số 452 kết luận: Không đủ cơ sở kết luận File Video Clip gửi giám định có cắt ghép, chỉnh sửa hay không. Không đủ cơ sở phân tích diễn biến hành động các đối tượng liên quan đến vụ việc xuất hiện trong File Video Clip gửi giám định.

Bị hại Đinh Tiến C bị vết thương sẹo trán phải 6,5cm, sẹo trán phải sát chân tóc 4cm, sẹo ngón 2 tay trái 2,5cm sẹo ngón 1 tay phải 2,5 cm. Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 113/2022/TgT ngày 08/4/2022 của Trung tâm pháp y tỉnh Đ xác định tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định của nạn nhân Đinh Tiến C là: 16%. Tổn thương do vật sắc gây nên. Anh C yêu cầu bồi thường số tiền 150.000.000 đồng. Bị can Phạm Duy H đã nộp số tiền 60.000.000 đồng cho cơ quan Thi hành án dân sự thành phố Đ để bồi thường khắc phục hậu quả.

Cáo trạng số: 160/Ctr-VKS ngày 31 tháng 5 năm 2023 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ đã truy tố Phạm Duy H về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm a, khoản 1 điểm đ, khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự.

Tại Bản án số 178/2023/HS-ST ngày 25/8/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Đ đã xử;

Tuyên bố bị cáo Phạm Duy H phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Áp dụng điểm a, khoản 1, điểm đ, khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Phạm Duy H 36 (Ba mươi sáu) tháng tù cho hưởng án treo. Thời gian thử thách thời gian thử thách là 05 (Năm) năm kể từ ngày tuyên án (ngày 25-8-2023) Ngoài ra bản án còn tách phần trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo của bị cáo và bị hại.

Ngày 06/9/2023 bị cáo Phạm Duy H kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Ngày 08/9/2023 bị hại Đinh Tiến C kháng cáo đề nghị xem xét lại tội danh, không áp dụng tình tiết giảm nhẹ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;

xem xét điều tra lại vụ án.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo, bị hại thay kháng cáo yêu cầu tòa phúc thẩm không cho bị cáo hưởng án treo và buộc bị cáo bồi thường 150.000.000đ chí phí điều trị, thu nhập bị mất và tổn thất tinh thần, ngoài ra không có yêu cầu nào khác.

Bị cáo chấp nhận bồi thường cho bị hại 150.000.000đ như bị hại yêu cầu.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đ trình bày quan điểm về việc giải quyết vụ án: Đề nghị căn cứ điểm a, b khoản 1 Điều 355; Điều 356;

Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự; không chấp nhận kháng cáo của bị cáo và bị hại, sửa bản án sơ thẩm về trách nhiệm dân sự theo sự thỏa thuận giữa bị cáo và bị hại tại phiên tòa phúc thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét đơn kháng cáo của bị cáo và bị hại gửi đến Tòa án trong hạn luật định và đúng quy định nên thời hạn kháng cáo là hợp lệ, nội dung kháng cáo của bị cáo là xin giảm nhẹ hình phạt; bị hại kháng cáo đề nghị không cho bị cáo hưởng án treo và phần trách nhiệm bồi thường dân sự đối với bị cáo [2] Về nội dung vụ án: Khoảng 21 giờ ngày 11-3-2022, tại khu vực hẻm số 61A đường PĐTV, do mâu thuẫn trong việc để xe, bị cáo Phạm Duy H đã dùng dao bằng kim loại màu trắng bạc dài khoảng 40cm chém vào người của anh Đinh Tiến C. Hậu quả anh C bị thương tích với tỷ lệ 16%.

Với hành vi trên, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Phạm Duy H về tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015 là có căn cứ và đúng pháp luật.

[3] Xét kháng cáo của bị hại:

[3.1] Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo đều thành khẩn khai báo, thừa nhận hành vi phạm tội. Hành vi phạm tội của bị cáo một phần do bị kích động. bức xúc, không kiềm chế được bản thân vì bị hại có hành vi chửi bới xúc phạm cha của bị cáo. Sau khi phạm tội bị cáo cũng đã chủ động bồi thường thiệt hại cho bị hại số tiền 60.000.000đ nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đ (BL100, 115). Cấp sơ thẩm áp dụng cho bị cáo các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự và Điều 65 Bộ luật Hình sự cho bị cáo hưởng án treo là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật. Do đó, việc bị hại kháng cáo yêu cầu không áp dụng Điều 65 bộ luật Hình sự, không cho bị cáo hưởng án treo là không có cơ sở.

[3.2] Về trách nhiệm dân sự: Tại cấp sơ thẩm, bị hại kháng cáo yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 150.000.000đ nhưng không cung cấp tài liệu, chứng từ chứng minh liên quan đến việc chữa trị và mất thu nhập. Tại cấp phúc thẩm, bị hại yêu cầu bị cáo bồi thường 150.000.000 đồng (bao gồm chi phí điều trị, thu nhập bị mất và tổn thất tinh thần), bị cáo chấp nhận toàn bộ yêu cầu của bị hại, đồng ý bồi thường cho bị hại 150.000.000đ. Xét thấy sự tự nguyện bồi thường của bị cáo đối với bị hại là phù hợp, vì vậy cần sửa bản án sơ thẩm về phần trách nhiệm dân sự. Buộc bị cáo có trách nhiệm bồi thường cho bị hại 150.000.000đ được khấu trừ 60.000.000đ đã nộp tại giai đoạn sơ thẩm, bị cáo còn phải bồi thường 90.000.000đ.

[4] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo:

Như phân tích tại mục [3.1] bị cáo phạm tội nhưng có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo có nhân thân tốt, lần đầu phạm tội và có nơi cư trú rõ ràng. Việc Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng Điều 65 Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo 36 tháng tù nhưng cho hưởng án treo là có căn cứ. Tại cấp phúc thẩm, bị cáo không cung cấp tài liệu, chứng cứ mới nên không có cơ sở để Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo, cần giữ nguyên bản án sơ thẩm là phù hợp.

[5] Về án phí: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a, b khoản 1 Điều 355; Điều 356; Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phạm Duy H, chấp nhận một phần kháng cáo bị hại Đinh Tiến C, sửa bản án sơ thẩm. Xử:

1. Tuyên bố bị cáo Phạm Duy H phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Áp dụng điểm a, khoản 1, điểm đ, khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Phạm Duy H 36 (Ba mươi sáu) tháng tù cho hưởng án treo. Thời gian thử thách thời gian thử thách là 05 (năm) năm kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 25-8-2023) Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân Phường 8, thành phố Đ, tỉnh Đ giám sát, giáo dục. Gia đình các bị cáo có trách nhiệm phối hợp cùng chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. Trong trường người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật hình sự.

2. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ khoản 1 Điều 46; khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và các Điều 584, 585, 586, 590 Bộ luật Dân sự 2015.

Buộc bị cáo có trách nhiệm bồi thường cho bị hại 150.000.000đ được khấu trừ 60.000.000đ bị cáo đã nộp theo biên lai thu số 0000777 ngày 20/02/2023 và 0000784 ngày 16/3/2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đ, bị cáo còn phải bồi thường 90.000.000đ (chín mươi triệu đồng) Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

3. Về án phí: Căn cứ Điều 135 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm e khoản 2 Điều 23; Điều 29 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Phạm Duy H phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.

4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

23
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 30/2024/HS-PT

Số hiệu:30/2024/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về