TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẦN THƠ
BẢN ÁN 30/2023/HS-PT NGÀY 19/05/2023 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 19 tháng 5 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 30/2023/TLPT- HS ngày 14 tháng 03 năm 2023 đối với bị cáo Nguyễn Văn Bé N do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 06/2023/HS-ST ngày 17 tháng 01 năm 2023 của Tòa án nhân dân quận C, thành phố Cần Thơ.
- Bị cáo có kháng cáo:
Nguyễn Văn Bé N, sinh năm 1974; Giới tính: Nam; Nơi cư trú: Khu vực A, phường B, quận C, thành phố Cần Thơ; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Trình độ học vấn: 3/12; Nghề nghiệp: Làm thuê; Họ tên cha: Nguyễn Văn P, sinh năm 1951 (sống); Họ tên mẹ: Nguyễn Thị S, sinh năm 1951 (sống); Họ tên vợ: Phan Kim D, sinh năm 1973; Con có 02 người (lớn sinh năm 1996, nhỏ sinh năm 2001); Tiền án, tiền sự: Chưa.
Bị cáo tại ngoại. Có mặt.
Người bị hại: Lê Thành Đ – sinh năm 1996.
Cư trú: Khu vực D, phường E, quận C, thành phố Cần Thơ. Có mặt.
Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho người bị hại là Luật sư Phạm Văn T, Công ty Luật T, thuộc Đoàn Luật sư thành phố Cần Thơ. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Bị cáo Nguyễn Văn Bé N có nợ anh Lê Thành Đ số tiền 13.000.000 đồng, mặc dù anh Đ nhiều lần nhắc nhở việc trả nợ nhưng Bé N không trả, nên hai bên xảy ra mâu thuẫn. Đến khoảng 09 giờ ngày 30/5/2022, anh Lê Thành Đ cùng với anh Lê Văn N đến nhà của Nguyễn Văn Bé N thuộc Khu vực A, phường B, quận C, thành phố Cần Thơ để đòi tiền. Lúc này, Bé N đang nằm trong nhà nhìn thấy anh Đ và anh N điều khiển xe mô tô đi ngang, Bé N nghĩ là anh Đ đến nhà để đòi tiền, nên Bé N lấy 01 đoạn kim loại dạng ống tròn (ống tuýp) đi ra băng đá đối diện nhà N ngồi. Khoảng 05 phút sau, Bé N nhìn thấy anh N điều khiển xe chở anh Đ quay lại và dừng xe cách chỗ N khoảng 04m, N cầm ống tuýp đi lại đánh anh Đ nhưng anh N dùng tay đở và bị đánh vào cổ tay trái, N tiếp tục dùng ống tuýp đánh vào vùng trán anh Đ làm anh Đ té ngã xuống đường thì có Nguyễn Hồng S là con của N ra can ngăn. Sau đó, anh Lê Văn N chở anh Đ đi bệnh viện điều trị và đến Công an phường B trình báo sự việc.
Khi tiếp nhận tin báo của anh Lê Thành Đ, Công an phường đến nơi xảy ra sự việc và tạm giữ tang vật là: 01 đoạn kim loại (ống tuýp) dài khoảng 50cm; 01 cây kim loại (cây xôm gạo) để trong bao da.
Đến ngày 31/5/2022, anh Lê Thành Đ có đơn yêu cầu khởi tố vụ án hình sự đối với Nguyễn Văn Bé N.
Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 149/TgT của Trung tâm pháp y - Sở y tế thành phố Cần Thơ, kết luận đối với anh Lê Văn N:
1. Dấu hiệu chính qua giám định:
Chấn thương gây sưng nề bàn tay trái đã được điều trị. Hiện tại đã lành, không còn vết tích trên da, không ảnh hưởng chức năng.
2. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại: 00% (không phần trăm).
Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 148/TgT ngày 15/6/2022 của Trung tâm pháp y - Sở y tế thành phố Cần Thơ, kết luận đối với Lê Thành Đ:
1. Dấu hiệu chính qua giám định:
- Vết thương vùng trán phải đã được điều trị. Hiện tại vết thương vùng trán phải đang lành, không ghi nhận ảnh hưởng chức năng.
- Vết sây sát mặt trước gối phải và trái đã được điều trị. Hiện tại vết đã lành, để lại các vết biến đổi sắc tố da mờ, không ghi nhận ảnh hưởng chức năng.
- Vết thương mặt trong ngón I bàn chân trái đã được điều trị. Hiện tại vết thương đang lành, không ghi nhận ảnh hưởng chức năng.
2. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 04% (bốn phần trăm).
Căn cứ Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 214/TgT ngày 25/8/2022 của Trung tâm pháp y - Sở y tế thành phố Cần Thơ, bổ sung cho Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 148/TgT, kết luận đối với anh Lê Thành Đ:
1. Dấu hiệu chính qua giám định:
- Vết thương vùng trán phải đã được điều trị. Hiện tại vết thương vùng trán phải đang lành, không ghi nhận ảnh hưởng chức năng.
- Vết sây sát mặt trước gối phải và trái đã được điều trị. Hiện tại vết đã lành, để lại các vết biến đổi sắc tố da mờ, không ghi nhận ảnh hưởng chức năng.
- Vết thương mặt trong ngón I bàn chân trái đã được điều trị. Hiện tại vết thương đang lành, không ghi nhận ảnh hưởng chức năng.
2. Tỷ lệ từng vết thương:
- Vết thương vùng trán phải đang lành, có tỷ lệ là 01% (một phần trăm);
- Vết sây sát da mặt trước gối phải đã lành, để lại các vết biến đổi sắc tố da mờ, có tỷ lệ là 01% (một phần trăm);
- Vết sây sát da mặt trước gối trái đã lành, để lại các vết biến đổi sắc tố da mờ, có tỷ lệ là 01% (một phần trăm);
- Vết thương mặt trong ngón I bàn chân trái đang lành, có tỷ lệ là 01% (một phần trăm).
3. Cơ chế:
- Các thương tích trên cơ thể của ông Lê Thành Đ phù hợp với cơ chế do vật tày gây nên.
Về trách nhiệm dân sự: Cả anh Lê Thành Đ, anh Lê Văn N đều không yêu cầu Nguyễn Văn Bé N bồi thường. Tuy nhiên, Nguyễn Văn Bé N đã tự nguyện giao nộp số tiền 10.000.000 đồng để bồi thường cho anh Lê Thành Đ.
Tại Bản án số 06/2023/HS-ST ngày 17/01/2023 của Tòa án nhân dân quận C, thành phố Cần Thơ đã quyết định:
1. Về trách nhiệm hình sự: Áp dụng: điểm a khoản 1 Điều 134; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Bé N 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành hình phạt.
Ngoài ra, bản án còn quyết định về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí, quyền kháng cáo theo quy định.
Ngày 30/01/2023, bị cáo Nguyễn Văn Bé N kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo.
Tại phiên tòa:
Bị cáo vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo.
Luật sư bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho người bị hại trình bày: Luật sư thống nhất với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cần Thơ tham gia phiên toà phát biểu quan điểm vụ án:
Bản án sơ thẩm đã tuyên là có căn cứ, đúng người, đúng với hành vi phạm tội của bị cáo. Khi lượng hình, cấp sơ thẩm đã xem xét toàn diện các tình tiết cho bị cáo theo quy định, áp dụng đúng tình tiết giảm nhẹ.
Bị cáo phạm tội có tính chất côn đồ, bị cáo dùng hung khí nguy hiểm gây thương tích dẫn đến hậu quả bị hại bị tổn thương cơ thể tổng cộng 4%. Do đó, bị cáo phải chịu trách nhiệm đối với thương tích đã gây ra cho bị hại. Cấp sơ thẩm chỉ nhận định bị cáo gây thương tích cho bị hại 1% tại vùng trán mà không nhận định đối với 3% còn lại là thiếu sót, tuy nhiên thiếu sót này không ảnh hưởng đến tội danh, khung hình phạt và mức án đã tuyên đối với bị cáo, chỉ cần rút kinh nghiệm là đủ.
Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự. Giữ nguyên tội danh và hình phạt của bản án hình sơ thẩm số: 06/2023/HS-ST ngày 17/01/2023 của Tòa án nhân dân quận C, thành phố Cần Thơ.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Kháng cáo của bị cáo trong thời hạn luật định nên đủ điều kiện để Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết theo quy định.
[2] Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn Bé N thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như cấp sơ thẩm đã xét xử. Đối chiếu với tài liệu chứng cứ thể hiện trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở để kết luận: Hành vi cầm đoạn kim loại (ống tuýp dài 50cm) là hung khí nguy hiểm đánh vào vùng trán phải của anh Lê Thành Đ, gây thương tích với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 4% (bốn phần trăm) của bị cáo N cho người bị hại Đ, tuy nhiên cấp sơ thẩm nhận định bị cáo gây thương tích cho bị hại 1% là không đúng mà phải xác định bị cáo gây thương tích cho người bị hại là 4% (căn cứ vào kết luận giám định thương tích người bị hại), việc sai sót này không ảnh hưởng đến tội danh và khung hình phạt đối với bị cáo.
Cấp sơ thẩm truy tố, xét xử bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3] Xét kháng cáo của bị cáo: Xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo vì lý do như sau: Bị cáo phạm tội lần đầu, hoàn cảnh gia đình khó khăn, bị cáo đang nuôi cha, mẹ già.
Hội đồng xét xử xét thấy:
Tòa án cấp sơ thẩm cũng đã xem xét, áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo như: Bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo có thiện chí nộp tiền để bồi thường thiệt hại cho người bị hại; đã thành khẩn khai báo và tỏ ra ăn năn hối cải. Bị cáo kháng cáo nhưng không cung cấp được tình tiết giảm nhẹ nào khác nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo.
Tính mạng, sức khỏe của con người là là vô giá được pháp luật bảo vệ, mọi hành vi xâm phạm do cố ý hay vô ý đều bị pháp luật nghiêm khắc trừng trị. Giữa bị cáo và người bị hại ban đầu chỉ mâu thuẫn nhỏ nguyên nhân là do mâu thuẫn xuất phát từ việc mượn tiền mà bị cáo gây thương tích cho người bị hại 04%. Đáng lẽ ra bị cáo có cách giải quyết mâu thuẫn đúng mực hơn, theo quy định pháp luật thì không gây hậu quả như vậy. Hành vi thực hiện của bị cáo đã vi phạm pháp luật. Do đó cần phải có mức án nghiêm khắc đối với bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội. Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo như vậy là tương xứng với mức độ phạm tội của bị cáo.
Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên mức hình phạt tù có thời hạn mà án sơ thẩm đã tuyên là phù hợp với quy định pháp luật.
[4] Xét thấy phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa phúc thẩm là có căn cứ, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.
[5] Về án phí phúc thẩm: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn Bé N. Giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số: 06/2023/HS-ST ngày 17 tháng 01 năm 2023 của Tòa án nhân dân quận C, thành phố Cần Thơ.
1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn Bé N phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
2. Áp dụng: Điểm a khoản 1 Điều 134; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Bé N 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành hình phạt.
3. Căn cứ: Khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự;
điểm b khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.
4. Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội cố ý gây thương tích số 30/2023/HS-PT
Số hiệu: | 30/2023/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Cần Thơ |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 19/05/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về