Bản án về tội cố ý gây thương tích số 294/2021/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TH, TỈNH TH

BẢN ÁN 294/2021/HSST NGÀY 08/07/2021 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 08 tháng 7 năm 2021 tại Hội trường Tòa án nhân dân thành phố TH, tỉnh TH xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 186/2021/TLST-HS ngày 22 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 178/2021/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 4 năm 2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Việt H, tên gọi khác: Không; Sinh năm 1994 tại TH; Nơi ĐKNKTT: Tổ dân phố C, phường B, thành phố S, tỉnh TH; Chỗ ở: Tổ X, phường H, thành phố TH, tỉnh TH; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Không; Chức vụ trước khi phạm tội (Đảng, chính quyền, đoàn thể): Không; Con ông Nguyễn Anh T1, sinh năm 1974 và con bà Dương Thanh H1, sinh năm 1976; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: 01. Tại Quyết định số 0023702/QĐ –XPHC ngày 24/02/2018 Công an thành phố TH xử phạt 2.500.000đ về hành vi “Xâm hại đến sức khỏe của người khác”. Đã nộp phạt ngày 12/3/2018.

Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố TH (bị tạm giam từ ngày 28/12/2020 đến nay). (Có mặt tại phiên tòa).

* Bị hại: Anh Trương Gia B, sinh năm 1999 – Trú tại tổ z, phường Đ, thành phố TH (Có đơn xin xét xử vắng mặt)

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Bà Dương Thanh H1, sinh năm 1976 – Trú tại tổ X, phường H, thành phố TH, tỉnh TH (Có mặt)

* Người làm chứng:

1. Anh Trần Đức L, sinh năm 1994 – Trú tại tổ N, phường T, thành phố TH (Có đơn xin xét xử vắng mặt)

2. Anh Phạm Thanh T, sinh năm 2001 - trú tại tổ C, phường T, thành phố TH, tỉnh TH (Có đơn xin xét xử vắng mặt)

3. Anh Phùng Anh T2, sinh năm 1994 - trú tại tổ E, phường T, thành phố TH, tỉnh TH (Vắng mặt)

4. Chị Vũ Thị Bích N, sinh năm 1985 – trú tại tổ I, phường H, thành phố TH, tỉnh TH (Vắng mặt)

5. Bà Trịnh Thị H2, sinh năm 1969 - trú tại xóm S, xã Q, thành phố TH, tỉnh TH (Vắng mặt) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ 00 phút ngày 23/8/2020, Nguyễn Việt H đến nhà anh Trương Gia B (sinh năm 1999 – trú tại tổ z, phường Đ, thành phố TH) để đòi tiền anh B vay của H. Tại nhà anh B, H gặp Phạm Thanh T (sinh năm 2001 - trú tại tổ C, phường T, thành phố TH, tỉnh TH) điều khiển xe môtô nhãn hiệu Honda SH BKS 20B1- 463.xx chở theo Trần Đức L (sinh năm 1994 – trú tại tổ N, phường T, thành phố TH) đến để đòi tiền B vay của anh Phùng Anh T1 (sinh năm 1994 - trú tại tổ F, phường T, thành phố TH, tỉnh TH). Do anh B không có ở nhà nên H đi nhờ xe T và L đến phòng trọ của B gần trường Đại học Công nghệ thông tin thuộc tổ 04, phường T, thành phố TH. Đến nơi, H và L lên phòng anh B trên tầng 2 của dãy nhà trọ nhưng không thấy anh B. T đi lên sau thì nhìn thấy anh B đi từ trong nhà vệ sinh khu trọ đi ra. T hỏi anh B “Anh không định trả tiền em à” rồi dùng tay phải đấm 01 phát vào bụng của B, lúc này L lao vào dùng tay phải tát vào mặt anh B 01 cái. Anh B nói đã chuyển khoản trả tiền cho anh T1 rồi nên T và L không đánh B nữa. Sau đó, H hỏi anh B về việc trả tiền cho H rồi đẩy anh B vào trong nhà vệ sinh, dùng tay phải đấm 03 cái vào đầu anh B, anh B hai tay ôm đầu, cúi mặt xuống thì H dùng chân phải đá theo chiều từ dưới lên trên khoảng 04 phát vào mặt B. H tiếp tục dùng tay phải lấy 01 chiếc kéo dài khoảng 15cm, phần tay cầm màu đỏ để tại giá để đồ trong nhà vệ sinh đâm đầu nhọn của kéo 01 nhát vào vùng trán trái và 01 nhát vào vùng môi trên của anh B khiến B bị rách da, chảy máu. Tiếp đó, H kéo anh B xuống dưới tầng một của dãy nhà trọ, dùng tay phải đấm khoảng 03 cái vào mặt anh B. Anh B bỏ chạy ra cổng nhà trọ, H đuổi theo kịp và lấy 01 chiếc mũ B hiểm để ở xe môtô gần đó đánh 03 phát vào đầu và người của B. Sau đó H nhờ T chở anh B ra đường lớn. H và L đi bộ theo sau. Đến nơi, T và L đi về trước.

H gọi 01 xe TAXI để cùng anh B đi về nhà B nói chuyện về việc trả nợ tiền vay của H. Lúc này anh B không nhất trí đi cùng H thì H dùng tay phải đấm 03 cái vào đầu anh B, anh B lấy điện thoại ra gọi cho người nhà đến đón thì H đuổi theo giật chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone 6 màu trắng của anh B ném xuống đất khiến điện thoại bị vỡ hỏng. Sau đó H bắt TAXI và anh B tự nguyện đi cùng H. Sau khi lên xe, H bảo TAXI đến nhà H tại chung cư Tiến Bộ thuộc tổ X, phường H, thành phố TH rồi H về nhà, và bảo TAXI đưa B về nhà anh B. Cùng ngày anh B đã trình báo sự việc đến Công an phường T, thành phố TH để giải quyết.

Hậu quả: Anh Trương Gia B bị 02 vết thương tại vùng trán trái (vết 01 dài 01cm x rộng 0,2cm; vết 2 dài 1,5cm x rộng 0,2cm), trầy xước da cạnh bên mũi; vùng môi trên có 02 vết thương (vết 01 dài 0,7cm x rộng 0,2cm; vết 2 dài 1,4cm x rộng 0,2cm) và điều trị tại Bệnh viện A TH từ ngày 23/8/2021 đến ngày 28/8/2021 thì ra viện.

Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 575/TgT ngày 22/10/2020 của Trung tâm pháp y tỉnh TH kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 11% (Mười một phầm trăm). Áp dụng phương pháp cộng theo Thông tư số 22/2019/TT–BYT ngày 28/8/2019 của Bộ Y tế. Cơ chế hình thành vết thương do tác động của vật sắc nhọn.

Tại bản kết luận của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố TH về định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 258/HĐĐGTS ngày 18/10/2020 kết luận: 01(một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6, màu trắng loại 32GB có số Imei: 359296067794280 bị vỡ, hỏng hoàn toàn giá trị thiệt hại là 1.300.000đ (Một triệu ba trăm nghìn đồng) Tại cơ quan điều tra: Bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với nhau và phù hợp với các tài liệu thu thập có trong hồ sơ vụ án như Biên bản xác định hiện trường, lời khai người làm chứng, bị hại. Bị cáo thừa nhận toàn bộ thương tích theo bệnh án và Kết luận giám định về thương tích của anh Trương Gia B là do một mình bị cáo gây ra.

Bị hại là anh Trương Gia B trình bày: Vào khoảng 20 giờ 00 phút ngày 23/8/2020 tôi bị H đánh bằng chân tay không, sau đó H có dùng 01 chiếc kéo để ở giá đồ trong nhà vệ sinh đâm vào tôi 02 nhát khiến tôi bị rách da, chảy máu. Sau đó H nhờ T đèo tôi ra ngoài đường để H gọi TAXI đưa về nhà để gặp bố mẹ tôi. T đèo tôi ra đến gần cồng trường THPT vùng cao Việt Bắc thì thả tôi ở đó. H nói đợi H gọi TAXI, tôi không đồng ý thì H lại dùng tay đánh tôi. Sau đó H gọi TAXI, tôi và H cùng lên xe TAXI đi về chung cư Tiến Bộ nơi H ở, H xuống xe và bảo lái xe TAXI đưa tôi về nhà. Sau đó bố mẹ tôi đưa tôi đến Công an phường T trình báo. Nguyên nhân H đánh tôi là do trước đó tôi và H có mâu thuẫn về việc tôi có cắm 01 chiếc loa Bluetooth với giá 3.000.000đ (Ba triệu đồng). H có gọi điện yêu cầu tôi phải mang tiền đến để nhổ loa ra, nhưng do tôi chưa có tiền nên H đã tìm tôi và xảy ra sự việc trên. Về trách nhiệm dân sự tôi và gia đình H đã thỏa thuận, bồi thường cho tôi số tiền 5.000.000đ và tôi đã nhận đủ số tiền trên, tôi không có yêu cầu gì khác. Về trách nhiệm hình sự đề nghị cho anh H được hưởng sự khoan hồng của pháp luật, phạt tù bằng thời hạn tạm giam để sớm trở về với gia đình và xã hội.

Vật chứng của vụ án gồm:

+ 01(một) chiếc kéo dài khoảng 15cm, có phần tay cầm bằng nhựa màu đỏ, hiện không thu hồi được; 01 mũ bảo hiểm màu đen, loại lưỡi trai, bị dập vỡ.

+ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6, màu trắng loại 32GB có số Imei: 359296067794280 bị vỡ.

Về trách nhiệm dân sự: Phạm Thanh T và Trần Đức L bồi thường cho anh Trương Gia B số tiền 10.000.000đ (Mười triệu đồng). Gia đình bị cáo H thỏa thuận với bị hại và bồi thường số tiền 5.000.000đ. Anh B đã nhận tiền và không có yêu cầu gì khác.

Cáo trạng số 200/CT-VKSTPTN ngày 22/4/2021,Viện kiểm sát nhân dân thành phố TH đã truy tố bị cáo Nguyễn Việt H về tội “Cố ý gây thương tích”, theo điểm đ khoản 2 Điều 134 BLHS.

Tại phiên tòa, Nguyễn Việt H đã khai nhận: Do anh Trương Gia B nợ tiền đã lâu không trả và trốn tránh gặp H. H đã nhiều lần liên lạc với anh B để đòi tiền nhưng không được. Ngày 23/8/2020 khi đến tìm thấy B ở nhà trọ nên H tức giận đã đánh anh B. Lúc đầu H đánh B bằng chân tay không, sau đó khi đẩy B vào nhà vệ sinh thấy ở giá đựng đồ trong nhà vệ sinh có 01 chiếc kéo dài khoảng 15cm, phần tay cầm màu đỏ, H đã cầm kéo đâm đầu nhọn 01 nhát vào vùng trán trái và 01nhát vào vùng môi trên của B khiến B bị rách da, chảy máu. Tiếp đó, H kéo anh B xuống tầng một, B bỏ chạy thì H đuổi theo lấy 01 chiếc mũ bảo hiểm màu đen để ở xe môtô gần đó đánh B và nhờ T đèo B ra ngoài đường lớn mục đích gọi TAXI đưa B về nhà nói chuyện với bố mẹ B về việc trả tiền cho B. Lúc đầu B không đồng ý và lấy điện thoại gọi cho người nhà đến đón thì H giật chiếc điện thoại ném xuống đất. Sau đó H gọi TAXI đi cùng B, đến khu chung cư tiến Bộ thì H xuống đi về nhà mình, và bảo xe TAXI đưa B về nhà B. Việc đánh anh B không nhằm ép buộc anh B phải trả tiền hay giao tài sản gì ngay cho H và không liên quan gì đến T và L.

Trong lời luận tội, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố TH sau khi tóm tắt nội dung vụ án, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, xem xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo đã kết luận giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Việt H về tội “Cố ý gây thương tích”. Đề nghị Hội đồng xét xử:

* Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 38 Bộ luật hình sự; Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Việt H từ 12 tháng đến 18 tháng tù.

* Về vật chứng của vụ án:

+ 01(một) chiếc kéo dài khoảng 15cm, có phần tay cầm bằng nhựa màu đỏ, hiện không thu hồi được;

+ Tịch thu tiêu hủy 01 (một) mũ B hiểm màu đen, loại lưỡi trai, bị dập vỡ và 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6, màu trắng loại 32GB có số Imei: 359296067794280 bị vỡ, hỏng hoàn toàn.

* Về trách nhiệm dân sự: Bị hại và gia đình bị cáo đã tự thỏa thuận bồi thường và đã bồi thường xong, nên đề nghị không xem xét.

* Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo không tranh luận, thừa nhận việc truy tố và xét xử bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” là không oan, đúng người, đúng tội.

Phần lời nói sau cùng bị cáo xin được hưởng sự khoan hồng của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an, cơ quan Viện kiểm sát, Điều tra viên, Kiểm sát viên thành phố TH trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người tham gia tố tụng khác không có ý kiến khiếu nại về hành vi quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời nhận tội của bị cáo phù hợp biên bản xác định hiện trường, kết luận giám định thương tích, lời khai của bị hại, người làm chứng, các tài liệu chứng cứ khác được thu thập trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở để Hội đồng xét xử xác định:

Khoảng 20 giờ 00 phút ngày 23/8/2020, tại nhà trọ của anh Trương Gia B thuộc tổ 04, phường T, thành phố TH, Nguyễn Việt H có hành vi dùng chân, tay đánh vào người, sử dụng 01 chiếc mũ B hiểm đánh vào đầu, dùng đầu nhọn của 01 chiếc kéo đâm vào vùng trán trái và vùng môi trên gây thương tích cho anh Trương Gia B. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên đối với anh Trương Gia B hiện tại là 11% (Mười một phầm trăm). Cơ chế hình thành vết thương là do tác động của vật sắc nhọn.

Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự.

Nội dung điều luật quy định:

“1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm a, Dùng...hung khí nguy hiểm...

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 06 năm:

a,b,....

đ, Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này”.

Viện kiểm sát nhân dân thành phố TH truy tố bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 BLHS là có căn cứ.

[3] Xét tính chất mức độ của hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo đã xâm phạm trực tiếp đến sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất an ninh trật tự tại địa phương.

[4] Xét về nhân thân các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo sinh ra và lớn lên được gia đình nuôi ăn học hết lớp 12, sau đó nghỉ ở nhà lao động tại địa phương. Bị cáo không có tiền án, tiền sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bản thân bị cáo nhận thức được hành vi vi phạm của mình có ý thức tác động đến gia đình bồi thường, khắc phục hậu quả nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 BLHS. Bị hại có đơn xin giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng theo quy định khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. .

Hội đồng xét xử thấy: Sau khi phạm tội bị cáo đã nhận thức được lỗi lầm, thực sự thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã tác động đến gia đình tự nguyện bồi thường khắc phục hậu quả, việc xảy ra xô sát một phần có lỗi của bị hại và bị hại có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, đề nghị của bị hại áp dụng Điều 54 BLHS cho bị cáo được hưởng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt cũng đủ tác dụng giáo dục bị cáo, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

[5] Về vật chứng vụ án:

+ 01 (một) chiếc kéo hiện không thu hồi được + 01 (một) mũ bảo hiểm màu đen, loại lưỡi trai, bị dập vỡ và 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6, màu trắng loại 32GB có số Imei: 359296067794280 bị vỡ, hỏng hoàn toàn, anh B không nhận lại và cũng không yêu cầu bị cáo bồi thường, nên cần tịch thu tiêu hủy.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại và gia đình bị cáo đã tự thỏa thuận và bồi thường xong, bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường khoản nào khác, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với khoản tiền bồi thường cho bị hại, bà Dương Thanh H1 không yêu cầu bị cáo trả lại số tiền bồi thường trên cho bà, Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[7] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án hình sự sơ thẩm. Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[8] Về các vấn đề khác:

+ Trong vụ án trên có Phạm Thanh T có hành vi dùng tay phải đấm một cái vào vùng bụng củ B và Trần Đức L có hành vi dùng tay phải tát vào vùng mặt trái của B trước khi Nguyễn Việt H đánh B, đến khi H đánh B thì L và T tự dừng lại không đánh anh B nữa. Do vụ việc xảy ra có tính bột phát, T, L và H không có sự bàn bạc, xúi giục, giúp sức không có hành động lôi kéo cùng nhau thực hiện nên không đủ căn cứ để xử lý T và L về hành vi Cố ý gây thương tích với vai trò đồng phạm. Song Phạm Thanh T và Trần Đức L đã có hành vi “Xâm hại sức khỏe của người khác”. Ngày 18/3/2021 Công an thành phố TH đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Phạm Thanh T và Trần Đức L theo quy định.

+ Đối với hành vi hủy hoại tài sản là 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6, màu trắng loại 32GB có giá trị 1.300.000đ của Nguyễn Việt H. Do hành vi không cấu thành tội phạm, ngày 18/3/2021 Công an thành phố TH đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 0065991/QĐ – XPHC đối với Nguyễn Việt H theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ Điều 326 bộ luật tố tụng hình sự Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Việt H phạm tội "Cố ý gây thương tích" 2. Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 38 Bộ luật hình sự; Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Việt H 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 28/12/2020.

Căn cứ vào Điều 329 BLTTHS: Quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm B thi hành án.

3. Về vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS:

Tịch thu tiêu hủy 01 (một) mũ B hiểm màu đen, loại lưỡi trai, bị dập vỡ, đã qua sử dụng và 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6, màu trắng loại 32GB có số Imei: 359296067794280 bị dập, vỡ, đã qua sử dụng.

(Tình trạng vật chứng như biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản số 471 ngày 25/6/2021 giữa Công an thành phố TH và Chi cục thi hành án dân sự thành phố TH, tỉnh TH).

4. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm nộp vào Ngân sách Nhà nước.

Án xử công khai sơ thẩm, báo cho bị cáo, ngươi có quyền lợi nghĩa vụ liên quan biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kế từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

322
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 294/2021/HSST

Số hiệu:294/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:08/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về