Bản án về tội cố ý gây thương tích số 27/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẮK R’LẤP, TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 27/2022/HS-ST NGÀY 09/06/2022 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 09 tháng 6 năm 2022 tại phòng xét xử, Toà án nhân dân huyện Đắk R’Lấp, tỉnh Đắk Nông xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 23/2022/HSST ngày 24 tháng 3 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 28/2022/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 4 năm 2022, Quyết định hoãn phiên tòa số:17/2022/HSST-QĐ, ngày 10 tháng 5 năm 2022, đối với bị cáo:

Huỳnh Ngọc T; tên gọi khác: Đ, Cu Đ; sinh ngày 30 tháng 6 năm 1993; nơi sinh: tỉnh Đồng Nai; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp T, xã X, huyện T, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: Lớp 9/12; dân tộc: Châu Ro; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Huỳnh Văn C, sinh năm 1960 và con bà Võ Thị K, sinh năm 1960; bị cáo đang chấp hành hình phạt tù tại Trại giam Xuân Lộc – Cục C10 Bộ Công an (xã Suối Cao, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai) trong một vụ án khác. Có mặt.

Nhân thân: Ngày 24/01/2019 bị Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xử phạt 06 năm 06 tháng tù, về tội “Cố ý gây thương tích” theo Bản án số 48/2019/HS-ST ngày 24/01/2019. Thời hạn tù được tính từ ngày 23/7/2018.

Bi hại: Anh Trần Đại D, sinh năm 1987.

Địa chỉ: Tổ dân phố 2, thị trấn K, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông. Vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

Người làm chứng:

Chị Nguyễn Thị Bích T, sinh năm 1997.

Địa chỉ: Thôn 6, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông. Anh Dương Phong V, sinh năm 1988.

Địa chỉ: Thôn 6, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông.

Anh Nguyễn Thanh B, sinh năm 1983.

Địa chỉ: Thôn 6, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông. Anh Nguyễn Minh T, sinh năm 1999.

Địa chỉ: Thôn 6, xã Đắk R, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông.

Tất cả người làm chứng đều vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Bị cáo Huỳnh Ngọc T bị Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đắk R’Lấp, tỉnh Đắk Nông truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Vào cuối năm 2014, Huỳnh Ngọc T (tên thường gọi Đ) đi từ nhà tại xã X, huyện T, tỉnh Đồng Nai đến địa bàn xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông để làm thuê. Vào khoảng 21giờ 00 ngày 12/01/2015, Huỳnh Ngọc T một mình đi đến quán cá viên chiên của chị Nguyễn Thị Mỹ L, tại địa chỉ: Thôn 6, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông để nhậu. Đến khoảng 22 giờ 00 cùng ngày, anh Dương Phong V, sinh năm 1988; anh Nguyễn Thanh B, sinh năm 1983 và anh Nguyễn Minh T, sinh năm 1982, cùng trú tại: Thôn 6, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông cũng đi đến quán của chị C để nhậu. Do quen biết với Huỳnh Ngọc T nên anh Dương Phong V gọi Huỳnh Ngọc T qua nhậu cùng với anh V thì Huỳnh Ngọc T đồng ý.

Trong lúc Huỳnh Ngọc T đang nhậu với nhóm của anh V thì có anh Trần Đại D, sinh năm 1987, trú tại: 168 H, phường P, quận 7, thành phố Hồ Chí Minh (Hiện nay trú tại: Tổ dân phố 2, thị trấn K, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông) chở chị Nguyễn Thị Bích T, sinh năm 1997, trú tại: thôn 6, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông đến quán phở H (gần quán của chị C) để mua đồ về nhậu. Khi đến nơi, anh Trần Đại D vào quán phở mua đồ nhậu, còn chị Nguyễn Thị Bích T đi bộ đến quán của chị C để mua cá viên chiên. Do có quen biết với chị Nguyễn Thị Bích T nên Huỳnh Ngọc T mời chị T vào nhậu cùng thì chị T đồng ý. Một lúc sau, anh Trần Đại D mua đồ nhậu xong nên điều khiển xe mô tô đi đến quán của chị C để chở T về. Khi đến nơi, anh Trần Đại D dừng xe mô tô ở ngoài đường để chờ T. Trong lúc chờ T, anh Trần Đại D nhận được điện thoại của bạn hỏi đã mua đồ xong chưa, anh Trần Đại D trả lời là đang mua và nói đùa với với bạn là “Tao đang bị đánh, mày cho người xuống đây”. Huỳnh Ngọc T nghe anh D nói như vậy thì cầm 01 cái kéo bằng kim loại dài 20cm đang để trên bàn nhậu đi đến chỗ anh D để nói chuyện. Khi đến nơi, Huỳnh Ngọc T hỏi anh D là “Sao em mời anh nhậu mà anh gọi người ta đánh em”. Nói xong thì giữa Huỳnh Ngọc T và anh D xảy ra xô xát, giằng co với nhau. Trong lúc giằng co với nhau, Huỳnh Ngọc T dùng kéo đâm 03 cái trúng vào phần lưng của anh D, anh D dùng mũ bảo hiểm đánh về phía Huỳnh Ngọc T nhưng không trúng, Huỳnh Ngọc T tiếp tục dùng kéo đâm 01 cái trúng vào vai trái và 01 cái trúng vào khuỷu tay trái của anh D. Lúc này, mọi người đến can ngăn nên Huỳnh Ngọc T vứt kéo tại hiện trường rồi bỏ đi.

Tại Kết luận giám định pháp y về thương tích số 98/TgT ngày 30/3/2015 của Trung tâm pháp y tỉnh Đắk Nông kết luận mức độ tổn thương cơ thể của anh Trần Đại D như sau:

1. Dấu hiệu chính qua giám định: Vết thương thấu phổi trái, tràn máu khoang màng phổi trái.

2. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là:

- Vết thương thấu phổi, tràn máu màng phổi trái, điều trị nội khoa ổn định, tỷ lệ: 08%; Đa sẹo vết thương phần mền kích thước nhỏ, tỷ lệ: 04%. Tổng tỷ lệ: 12%.

Việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật; xử lý vật chứng:

- Thu giữ khi khám nghiệm hiện trường: 01 cái kéo bằng kim loại dài 20cm.

- Thu giữ của anh Trần Đại D: 01 áo khoác màu xanh - đen, trên áo có 08 vết rách.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Trần Đại D yêu cầu bị can bồi thường chi phí điều trị, thu nhập bị mất và tổn hại về tinh thần với tổng số tiền là 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng). Đến nay bị cáo chưa bồi thường cho bị hại.

Sau khi sự việc xẩy ra bị cáo Huỳnh Ngọc T đã bỏ trốn và bị truy nã, đến ngày 05/10/2021 bị phát hiện khi đang chấp hành hình phạt tù tại Trại giam Xuân Lộc - Cục C10 Bộ Công an.

Tại bản cáo trạng số 20/CTr - VKS ngày 18 tháng 02 năm 2022 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đắk R’Lấp quyết định truy tố ra trước Toà án nhân dân huyện Đắk R’Lấp để xét xử bị cáo Huỳnh Ngọc T về tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo Huỳnh Ngọc T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, thừa nhận Viện kiểm sát truy tố bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” là đúng, không oan và chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk R’Lấp, tỉnh Đắk Nông vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Huỳnh Ngọc T về tội“Cố ý gây thương tích”. Sau khi đánh giá tính chất, mức độ của hành vi phạm tội và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Huỳnh Ngọc T phạm tội “Cố ý gây thương tích” Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:

Bị cáo Huỳnh Ngọc T từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù.

Căn cứ Điều 56 Bộ luật Hình sự tổng hợp hình phạt 06 (sáu) năm 06 (sáu) tháng tù, về tội “Cố ý gây thương tích” của Bản án số 48/2019/HS-ST ngày 24/01/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Buộc bị cáo Huỳnh Ngọc T phải chấp hành hình phạt của hai bản án từ 09 năm đến 09 năm 06 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 23/7/2018.

Về vật chứng vụ án: Đối với 01 cái kéo bằng kim loại dài 20cm, 01 áo khoác màu xanh - đen, trên áo có 08 vết rách thu giữ của của anh Trần Đại D không còn giá trị sử dụng nên đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu tiêu hủy.

Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra anh Trần Đại D yêu cầu bị cáo phải bồi thường số tiền 20.000.000 đồng, tuy nhiên trước khi mở phiên tòa xét xử vụ án anh Trần Đại D có đơn không yêu cầu bồi thường nên không đề cập giải quyết.

Tại phiên toà bị cáo không bào chữa gì về hành vi phạm tội của mình mà chỉ đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Căn cứ các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của bị cáo, lời khai của những người tham gia tố tụng khác có trong hồ sơ vụ án;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1].Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Đắk R’Lấp, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk R’Lấp, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan và người tiến hành tố tụng đã thực hiện phù hợp với quy định của pháp luật.

[2]. Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Huỳnh Ngọc T khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, lời khai của bị hại, lời khai của người làm chứng, biên bản khám nghiệm hiện trường và phù hợp với tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Vào khoảng 22 giờ 00 ngày 12/01/2015, tại thôn 6, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông, mặc dù bị cáo không có mâu thuẫn gì với anh Trần Đại D nhưng khi nghe anh D nói chuyện với bạn qua điện thoại với nội dung “Tao đang bị đánh, mày cho người xuống đây” thì bị cáo cầm 01 cái kéo bằng kim loại dài 20cm đi đến chỗ anh D để nói chuyện. Khi đến nơi thì giữa bị cáo và anh D xảy ra xô xát, giằng co với nhau, trong lúc giằng co bị cáo Huỳnh Ngọc T đã dùng kéo đâm 03 cái trúng vào phần lưng của anh D, đâm 01 cái trúng vào vai trái và 01 cái trúng vào khuỷu tay trái của anh Trần Đại D gây thương tích.

Tại Kết luận giám định pháp y về thương tích số 98/TgT ngày 30/3/2015 của Trung tâm pháp y tỉnh Đắk Nông kết luận mức độ tổn thương cơ thể của anh Trần Đại D như sau:

Dấu hiệu chính qua giám định: Vết thương thấu phổi trái, tràn máu khoang màng phổi trái.

Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là: Vết thương thấu phổi, tràn máu màng phổi trái, điều trị nội khoa ổn định, tỷ lệ: 08%; Đa sẹo vết thương phần mềm kích thước nhỏ, tỷ lệ: 04%. Tổng tỷ lệ thương tích của anh Trần Đại D: 12% (Mười hai phần trăm).

Bị cáo Huỳnh Ngọc T thực hiện hành vi phạm tội vào thời điểm Bộ luật Hình sự năm 1999 đang có hiệu lực thi hành nhưng lại bị điều tra, truy tố và xét xử vào thời điểm Bộ luật Hình sự năm 2015 đang có hiệu lực thi hành. Theo quy định tại khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015 có hình phạt nhẹ hơn hình phạt quy định tại khoản 2 Điều 104 Bộ luật Hình sự năm 1999. Do đó, căn cứ khoản 3 Điều 7 Bộ luật Hình sự năm 2015, điểm b khoản 1 Điều 2 Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội, cần áp Bộ luật Hình sự năm 2015 để điều tra, truy tố, xét xử đối với bị cáo Huỳnh Ngọc T.

Do đó, có đủ căn cứ để kết luận bị cáo Huỳnh Ngọc T phạm tội“Cố ý gây thương tích” được quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự năm 2015 như kết luận của Kiểm sát viên là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định:

“1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm, hoặc bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Dùng hung khí nguy hiểm;

i) Có tính chất côn đồ;

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 06 năm:

đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này”

[3]. Đánh giá tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội bị cáo đã xâm phạm đến sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ. Bị cáo là người có đủ khả năng nhận thức rằng hành vi của mình là vi phạm pháp luật; xâm phạm sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ; làm mất trật tự an toàn xã hội; gây tâm lý lo lắng trong quần chúng nhân dân; bị toàn xã hội lên án nhưng do ý thức coi thường pháp luật nên bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội.

[4]. Về tình tiết định khung hình phạt:

Hành vi của bị cáo vi phạm tình tiết định khung tăng nặng “Dùng hung khí nguy hiểm” và “Có tính chất côn đồ” nên bị xét xử ở điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

[5]. Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cãi nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[6]. Về hình phạt:

Xét tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng một hình phạt nghiêm tương xứng với tính chất hành vi mà bị cáo Huỳnh Ngọc Tâm đã gây ra và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân biết chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, đồng thời răn đe, phòng ngừa chung.

Ngày 24/01/2019 bị cáo bị Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xử phạt 06 năm 06 tháng tù, về tội “Cố ý gây thương tích” theo Bản án số 48/2019/HS-ST ngày 24/01/2019, hiện nay bị cáo đang chấp hành bản án nêu trên tại Trại giam Xuân Lộc – Cục C10 Bộ Công an. Vì vậy cần áp dụng Điều 56 của Bộ luật Hình sự năm 2015 tổng hợp hình phạt 06 (sáu) năm 06 (sáu) tháng tù, về tội “Cố ý gây thương tích” của Bản án số 48/2019/HS-ST ngày 24/01/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai với hình phạt của bản án mới.

[7]. Về trách nhiệm dân sự:

Quá trình giải quyết vụ án bị hại Trần Đại D không yêu cầu bị cáo phải bồi thường trách nhiệm dân sự nên không đề cập giải quyết.

[8]. Về xử lý vật chứng:

Đối với 01 cái kéo bằng kim loại dài 20cm; 01 áo khoác màu xanh - đen, trên áo có 08 vết rách thu giữ của của anh Trần Đại D hông còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy

[9]. Xét quan điểm và đường lối xử lý của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk R’Lấp tại phiên tòa về tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt và xử lý vật chứng đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật nên HĐXX cần chấp nhận.

[10]. Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tuyên bố bị cáo Huỳnh Ngọc T hạm tội“Cố ý gây thương tích”. Xử phạt bị cáo Huỳnh Ngọc T 3 (ba) năm tù.

Căn cứ Điều 56 Bộ luật Hình sự năm 2015 tổng hợp hình phạt 06 (sáu) năm 06 (sáu) tháng tù, về tội “Cố ý gây thương tích” của Bản án số 48/2019/HS-ST ngày 24/01/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Buộc bị cáo Huỳnh Ngọc T phải chấp hành hình phạt của hai bản án là 09 (chín) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 23/7/2018.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 46, Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 01 cái kéo bằng kim loại dài 20cm; 01 áo khoác màu xanh - đen, trên áo có 08 vết rách thu giữ của của anh Trần Đại D.

(Các vật chứng có đặc điểm được mô tả như trong biên bản thu giữ vật chứng)

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; Điều 21, Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Huỳnh Ngọc T phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án; bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

131
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 27/2022/HS-ST

Số hiệu:27/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đắk R'Lấp - Đăk Nông
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về