Bản án về tội cố ý gây thương tích số 26/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VŨNG TÀU, TỈNH BÀ RỊA-VŨNG TÀU

BẢN ÁN 26/2022/HS-ST NGÀY 26/01/2022 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Trong các ngày 25 và 26 tháng 01 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 303/2021/HSST ngày 03 tháng 11 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 364/2021/QĐXX-HS ngày 12 tháng 11 năm 2021; Thông báo mở lại phiên tòa số 04/2021/TB-MPT ngày 04-01-2022; Quyết định thay đổi kiểm sát viên số 08A/QĐ-VKS-HS ngày 18-01-2022 đối với bị cáo:

Dương Thanh D, sinh năm 1997 tại Bà Rịa - Vũng Tàu; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Không đăng ký hộ khẩu thường trú; Chỗ ở: Không nơi cư trú nhất định; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Trình độ văn hoá: 3/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Cha Dương Văn V, sinh năm 1970 (đã chết) và mẹ Bùi Kim O, sinh năm 1975; bị cáo là con thứ ba trong gia đình có 04 anh, chị em.

Tiền án: Ngày 10/11/2015 bị TAND tỉnh BR-VT tuyên phạt 05 năm tù về tội “Giết người” theo Bản án hình sự sơ thẩm số 62/2015/HSST. Chấp hành xong án phạt tù và án phí ra trại ngày 11/4/2019.

Tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 01/11/2013 bị TAND thành phố Vũng Tàu tuyên phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản” theo Bản án hình sự sơ thẩm số 225/2013/HSST. Chấp hành xong án phạt tù và án phí (thời điểm phạm tội dưới 18 tuổi).

Bị cáo bị bắt ngày 20-6-2021 theo Lệnh truy nã ngày 20/6/2 021, hiện tạm giam ở Nhà tạm giữ Công an thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. (có mặt)

Bị hại: Anh Châu Thanh T, sinh năm: 2000. (vắng mặt)

HKTT: Ấp A, xã L, huyện K, tỉnh Kiên Giang.

Địa chỉ: Ấp M 1, xã M, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.

Người làm chứng:

+ Anh Nguyễn Châu K, sinh năm: 2002. (vắng mặt)

Địa chỉ: 442/1/2/10 Bình Giã, phường N, thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

+ Anh Lê Phước H, sinh năm: 1972. (vắng mặt)

Địa chỉ: 442/1/4 Bình Giã, phường N, thành phố V, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu.

+ Anh Trần Minh Thế A; sinh năm: 1985. (vắng mặt)

Địa chỉ: 442/1/25/4 Bình Giã, phường N, thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

+ Anh Trần Công S, sinh năm: 1989. (vắng mặt)

Địa chỉ: 58/2 Phạm Hồng Thái, phường B, thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

+ Anh Võ Thanh T, sinh năm: 1993. (vắng mặt)

Địa chỉ: Ấp P, xã T, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào ngày 25-8-2019, Trần Minh Thế A (tên thường gọi là Ty) xảy ra mâu thuẫn, cãi nhau với Võ Thanh T (tên thường gọi là Nhí) và một người tên P (không rõ nhân thân, lai lịch) về lối đi trong dãy trọ tại địa chỉ: 442/1/25/4 Bình Giã, phường N, thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Ngày hôm sau, Thế A đã kể sự việc trên cho bạn làm chung (thợ sơn nước) là Dương Thanh D (tên thường gọi là Xị) biết, nhờ D đi cùng về phòng trọ để giải quyết mâu thuẫn với T và P thì D đồng ý.

Đến khoảng 19 giờ ngày 26-8-2019, Thế A chở D về phòng trọ giải quyết mâu thuẫn với Võ Thanh T. Lúc đi, D mang theo 02 (hai) con dao tự chế bằng kim loại, dài khoảng 40 cm. Khi về đến dãy phòng trọ, D đưa cho Thế A 01 (một) con dao còn D cầm 01 (một) con dao đứng ngoài cổng chờ Thế A vào nói chuyện. Thế A cầm con dao đi vào dãy trọ thì thấy T đang ngồi trước phòng.

Trong lúc nói chuyện, cãi nhau với T, Thế A đã cầm dao tự chế chém vào giữa ngón tay cái và ngón trỏ của T gây thương tích. Lúc này, bạn của T là Nguyễn Châu K và Châu Thanh T cùng trú tại: 442/1/2/10 Bình Giã, phường N, TP. V biết T bị đánh nên K chở T ngồi sau cầm theo 02 đoạn tre chạy xe đến khu trọ của T. Khi cả hai chạy đến đầu hẻm cách nhà trọ của T khoảng 20m thì bị D cầm dao mang theo xông ra chém 02 nhát (vào vùng đầu, tay bên phải) T gây thương tích. Sau khi D gây thương tích cho T, Thế A đi từ trong nhà trọ của T đi ra thấy vậy mới hỏi K và T là bạn của T phải không thì cả hai nói đến nhà T chơi. Nghe vậy, Thế A lấy xe chở D bỏ đi. Sau đó, T và T được người thân chở đi cấp cứu.

Quá trình điều tra, Trần Minh Thế A khai nhận rõ hành vi như trên, mục đích Thế A nhờ Dương Thanh D đến gặp T, Phú là để tăng lực lượng giúp sức cùng Thế A đánh lại T và P khi xảy ra xô xát đánh nhau giữa hai bên. Tại thời điểm D dùng dao chém T gây thương tích ở ngoài cổng dãy trọ, Thế A không biết. Đối với con dao, Thế A khai nhận đây là dao của D đưa cho và Thế A đã đưa lại cho D sau khi dùng gây thương tích cho T. Sau khi gây án, D đã bỏ trốn khỏi địa phương.

Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 302/TgT ngày 18/10/2019 của Trung tâm pháp y thuộc Sở y tế tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu: kết luận đối với Võ Thanh T như sau: 01 vết thương phần mềm bàn tay phải, lành tốt. Thương tích trên được gây ra do sự tác động tương hỗ của vật cứng có cạnh sắc, tác động vào vị trí thương tích theo chiều hướng từ sau ra trước, lực tác động trung bình;

Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây ra hiện tại là: 01% (Một phần trăm).

Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 303/TgT ngày 18/10/2019 của Trung tâm pháp y thuộc sở y tế tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu kết luận đối với Châu Thanh T như sau: 01 vết thương phần mềm vùng đầu, lành tốt, 01 vết thương bàn tay phải gây đứt gân duổi ngón IV, gãy xương bàn IV được phẫu thuật khâu nối gân đứt, làm nẹp, hiện tại vận động ngón tay hạn chế ít.

Thương tích 1: Được gây ra do sự tác động tương hỗ của vật cứng có cạnh sắc, tác động vào vị trí thương tích theo chiều hướng từ trên xuống dưới, lực tác động mạnh;

Thương tích 2: Phù hợp với tổn thương cơ bản là “vết chắm hay băm bổ” được gây ra do sự tác động của vật có diện tích rộng hoặc có trọng lượng lớn tác động với lực mạnh vào cơ thể như dao rựa, dao phay, búa, rìu; tác động vào vị trí vết thương theo chiều hướng từ dưới lên trên.

Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây ra hiện tại là: 16% (Mười sáu phần trăm).

Tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định nêu trên. Bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung vụ án đã nêu.

Bị hại, người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa được công bố lời khai, bị cáo không có ý kiến gì đối với những lời khai đó.

Về thu giữ, tạm giữ và xử lý vật chứng, tài liệu, đồ vật: 02 con dao dài khoảng 40 cm sau khi phạm tội D đã vứt bỏ ven đường nên không thu hồi được.

Về phần trách nhiệm dân sự: Bị hại có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại ngày 28-10-2021 yêu cầu bị cáo phải bồi thường gồm: Tiền thuốc 8.000.000đ (tám triệu đồng), nguồn thu nhập bị mất khi nằm viện 25.000.000đ (50 ngày x 500.000đ/ngày), chi phí người nuôi bệnh là 10.000.000d (50 ngày x 200.000đ/ngày), tiền tổn thất tinh thần là 74.500.000đ (50 tháng x 1.490.000đ), tổng số tiền yêu cầu bị cáo phải bồi thường là 117.000.000đ (Một trăm mười bảy triệu đồng).

Tại bản cáo trạng số 303/CT-VKSTPVT ngày 29-10-2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố V, truy tố bị cáo Dương Thanh D về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm c, đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố V giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Dương Thanh D phạm tội “Cố ý gây thương tích. Áp dụng: Điểm c, đ khoản 2 Điều 134; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo D từ 04 (bốn) năm đến 05 (năm) năm tù; Về xử lý đồ vật, vật chứng: Không giải quyết vì không thu hồi được; Về trách nhiệm dân sự đề nghị giải quyết theo quy định pháp luật.

Bị cáo thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo như cáo trạng đã truy tố, không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát cũng như không nói lời nói sau cùng.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

[1.1 ] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố V, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố V, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, những người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án là hợp pháp.

[1.2] Về sự vắng mặt của những người tham gia tố tụng: Bị hại anh T, người làm chứng gồm: anh Thế A, anh T, anh H, anh S, anh K vắng mặt tại phiên tòa nhưng đã có lời khai và được Tòa án triệu tập nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị hại, những người làm chứng theo quy định tại điều 292, 293 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Căn cứ lời khai nhận hành vi phạm tội của bị cáo tại phiên tòa, đối chiếu lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, biên bản khám nghiệm hiện trường, lời khai của bị hại, người làm chứng, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ được thu thập trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa là hoàn toàn phù hợp, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận:

Khoảng 19 giờ ngày 26-8-2019, tại phòng trọ tại địa chỉ số 442/1/25/4 đường Bình Giã, phường N, thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Dương Thanh D đã có hành vi cầm dao chém 01 nhát vào vùng đầu và 01 nhát vào tay bên phải của bị hại Châu Thanh T gây thương tích. Hậu quả, anh T bị thương phần mềm vùng đầu và 01 vết thương bàn tay phải gây đứt gân duổi ngón IV, gãy xương bàn IV, thương tích gây ra tỷ lệ 16%. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân thành phố V truy tố bị cáo Dương Thanh D về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm c, đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Đối với hành vi của Trần Minh Thế A dùng dao tự chế do D đưa gây thương tích cho anh Võ Thanh T là 1% nhưng anh T không yêu cầu khởi tố đối với Thế A và D. Hành vi của D dùng dao tự chế chém vào đầu và tay phải của anh T gây thương tích tỷ lệ 16% là do D tự gây ra độc lập, không có sự bàn bạc, phân công, sắp xếp, chỉ đạo của Thế A. Hành vi dùng dao gây thương tích của D đối với anh T là hành vi vượt quá của D, Thế A không biết và không biết sự có mặt của anh T và anh Nguyễn Châu K. Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận Thế A không biết sự có mặt của T cũng như không bàn bạc, thống nhất, phân công D đứng ngoài cảnh giới. Dó đó, Thế A không liên quan đến hành vi phạm tội của D gây ra cho anh T.

[4] Xét tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội:

Sức khỏe con người là vốn quý của xã hội và luôn được pháp luật bảo vệ. Mọi hành vi xâm hại sức khỏe của người khác đều phải xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo D là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi dùng dao gây thương tích cho người khác sẽ bị xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã làm ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự tại địa phương. Vì vậy, cần áp dụng hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo là áp dụng hình phạt tù để cách ly bị cáo ra ngoài đời sống xã hội nhằm đảm bảo tính răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[5] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Ngày 10/11/2015 bị TAND tỉnh BR-VT tuyên phạt 05 năm tù về tội “Giết người”, ngày 11/4/2019 chấp hành xong hình phạt chưa được xóa án tích nhưng nay bị cáo tiếp tục phạm tội nêu trên nên thuộc trường hợp tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[6] Về trách nhiệm dân sự:

[6.1] Quá trình điều tra bị hại anh T có đơn yêu cầu bồi thường dân sự ngày 28-10-2021 nhưng không cung cấp chứng cứ chứng minh yêu cầu bồi thường. Tòa án đã triệu tập nhiều lần yêu cầu anh T đến Tòa làm việc để cung cấp các chứng cứ chứng minh cho thiệt hại mà anh T yêu cầu nhưng anh T đều vắng mặt và tại phiên tòa anh T không có mặt. Tuy nhiên, xét thấy hành vi phạm tội của bị cáo đã gây thiệt hại đối với anh T và tại phiên tòa bị cáo đồng ý bồi thường cho bị hại theo quy định pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận xem xét giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại.

[6.2] Xét về số tiền anh T yêu cầu bồi thường thiệt hại là 117.000.000đ (Một trăm mười bảy triệu đồng), gồm: Bồi thường tiền thuốc 8.000.000đ (tám triệu đồng), nguồn thu nhập bị mất khi nằm viện 25.000.000đ (50 ngày x 500.000đ/ngày), chi phí người nuôi bệnh là 10.000.000d (50 ngày x 200.000đ/ngày), tiền tổn thất tinh thần là 74.500.000đ (50 tháng x 1.490.000đ). Căn cứ hành vi phạm tội của bị cáo như nhận định nêu trên, căn cứ tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, tỷ lệ thương tích thì Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận một phần yêu cầu bồi thường thiệt của anh T đối với các chi phí như sau:

[6.2.1] Anh T vào bệnh viện Lê Lợi từ ngày 26-8-2019 ra viện ngày 05-9-2019, tổng cộng anh T điều trị tại bệnh viện mười ngày (B1 62). Đối với yêu cầu bồi thường tiền thuốc là 8.000.000đ anh T không cung cấp hóa đơn viện phí, hóa đơn tiền thuốc nên không có căn cứ để xem xét tiền thuốc như yêu cầu của anh T nêu trên, tuy nhiên căn cứ “Hóa đơn giá trị gia tăng” ngày 11-9-2019 do cơ quan điều tra thu thập thì tiền khám bệnh là 120.000đ (B1 63) nên được chấp nhận buộc bị cáo phải trả số tiền 120.000đ cho anh T. Anh T được quyền yêu cầu trong vụ án dân sự khác để xem xét giải quyết bồi thường tiền thuốc, viện phí khi có yêu cầu và có tài liệu chứng cứ chứng minh.

[6.2.2] Anh T nằm viện điều trị mười ngày nên thực tế bị mất thu nhập là có thật, anh T là lao động tự do cụ thể là bốc vác. Tuy nhiên, anh T không cung cấp tài liệu chứng cứ chứng minh thu nhập thực tế nên không xác định được thu nhập thực tế của anh T nhưng thương tích của anh T là 16% chấn thương ở đầu và tay phải trong khi anh T làm bốc vác nên ảnh hưởng trực tiếp đến công việc và phải cần thêm thời gian sau khi xuất viện để hồi phục chấn thương. Do đó, buộc bị cáo bồi thường tổn thất về thu nhập trong một tháng cho bị hại là cần thiết và phù hợp, mức bồi thường là 8.000.000đ/tháng (áp dụng mức lao động cùng loại tại địa phương).

[6.2.3] Chi phí người nuôi bệnh, xét anh T nằm viện điều trị mười ngày phải có người chăm sóc trong thời gian điều trị, do đó yêu cầu này của bị hại là phù hợp nên được chấp nhận buộc bị cáo phải bồi thường 2.000.000đ (10 x 200.000đ/ngày).

[6.2.4] Chi phí tổn thất bù đắp về tinh thần, xét về hành vi của bị cáo gây ra đối với bị hại là nghiêm trọng, ảnh hưởng đến tâm lý, tinh thần của bị hại do đó yêu cầu này của bị hại là phù hợp nên được chấp nhận không quá mười lăm tháng lương cơ sở là 22.350.000đ (1.490.000đ x 15)

[6.3] Như vậy tổng số tiền bị cáo phải bồi thường cho bị hại là 32.470.000đ (Ba mươi hai triệu bốn trăm bảy mươi ngàn đồng). Không chấp nhận một phần yêu cầu bồi thường của bị hại đối với số tiền là 84.530.000 (117.000.000đ - 32.470.000đ).

[7] Về xử lý vật chứng, tài sản trong vụ án: Không xem xét do không thu giữ được vật chứng là hai con dao tự chế.

[8] Về án phí:

[8.1] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) và án phí dân sự sơ thẩm là 1.623.500đ (32.470.000đ x 5%).

[8.2] Bị hại anh T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với phần yêu cầu bồi thường thiệt hại không được chấp nhận là 4.226.500đ(84.530.000đ x 5%).

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố:

Bị cáo Dương Thanh D phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

1. Áp dụng điểm c, đ khoản 2 Điều 134; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự;

Xử phạt: Bị cáo Dương Thanh D 05 (năm) tù. Thời hạn tù tính từ ngày 20-6-2021.

2. Xử lý vật chứng: Không giải quyết.

3. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 584, 585, 590 Bộ luật dân sự

Buộc bị cáo Dương Thanh D phải bồi thường thiệt hại cho bị hại anh Châu Thanh T số tiền là 32.470.000đ (Ba mươi hai triệu bốn trăm bảy mươi ngàn đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

Không chấp nhận một phần yêu cầu về bồi thường thiệt hại của bị hại anh Châu Thanh T đối với số tiền 84.530.000đ (Tám mươi bốn triệu năm trăm ba mươi ngàn đồng).

4. Về án phí: Bị cáo Dương Thanh D phải chịu 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm là 1.623.500đ (Một triệu sáu trăm hai mươi ba ngàn năm trăm đồng).

Bị hại anh Châu Thanh T phải chịu 4.226.500đ (Bốn triệu hai trăm hai mươi sáu ngàn năm trăm đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày tính từ ngày tuyên án; bị hại vắng mặt tại phiên tòa nên thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật để yêu cầu TAND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

171
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 26/2022/HS-ST

Số hiệu:26/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vũng Tàu - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về