TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ LONG MỸ, TỈNH HẬU GIANG
BẢN ÁN 25/2023/HS-ST NGÀY 26/07/2023 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 26 tháng 7 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã L, tỉnh H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 24/2023/TLST-HS ngày 10 tháng 7 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 24/2023/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 7 năm 2023, đối với bị cáo:
Họ và tên: Nguyễn Minh Th; Tên gọi khác: Đ; Sinh năm 1987; Nơi sinh: Thị xã L, tỉnh H; Nơi cư trú: Khu vực 3, phường A, thị xã M, tỉnh HG. Nghề nghiệp: làm thuê; Trình độ học vấn: 6/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn Th1 (còn sống) và bà Đinh Thu V (còn sống). A1h, chị, em ruột: Không có. Vợ: Từ năm 2013 đến năm 2014 sống chung như vợ chồng không đăng ký kết hôn với bà Hồ Lý Ái Thanh Th2, có 01 người con chung Hồ A1 N (sinh năm 2014). Từ năm 2015 sống chung như vợ chồng không đăng ký kết hôn với bà Nguyễn Mai Tr có 01 người con chung: Nguyễn Minh Tr1 (sinh năm 2016); Tiền sự: không.
Tiền án: 01. Ngày 09/11/2017, bị Tòa án nhân dân thị xã L, tỉnh H xét xử sơ thẩm tuyên phạt 08 năm tù giam về “Tội mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999, được sửa đổi bổ sung năm 2009, ngày 20/01/2023, bị cáo chấp hành xong hình phạt tù và án phí hình sự sơ thẩm nhưng chưa được xóa án tích.
Nhân thân:
+ Ngày 19/9/2005, bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính là đưa vào cơ sở giáo dục với thời hạn 24 tháng, bị cáo đã chấp hành xong.
+ Ngày 15/9/2009, bị Tòa án nhân dân quận Tân Phú, thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm tuyên phạt 04 năm tù giam về “Tội cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 136 BLHS năm 1999, được sửa đổi bổ sung năm 2009, bị cáo đã chấp hành xong hình phạt và đã được xóa án tích.
Bị cáo bị bắt tạm giam kể từ ngày 10/5/2023, đến ngày 23/6/2023 được thay thế biện pháp ngăn chặn là cho gia đình bảo lĩnh cho đến nay. Bị cáo tại ngoại, bị cáo có mặt tại phiên tòa.
- Bị hại: Bà Nguyễn Thị Thúy A1, sinh năm 1989 (vắng mặt) Địa chỉ: Ấp 6, xã VĐ, huyện M, tỉnh HG.
- Người làm chứng:
1. Đinh Minh Th4, sinh năm 1991 (vắng mặt) Địa chỉ: Khu vực 2, phường A, thị xã M, tỉnh HG
2. Đoàn Thanh H1, sinh năm: 1985 (vắng mặt) Địa chỉ: Ấp 4, xã H, huyện M, tỉnh HG
3. Nguyễn Thanh H2, sinh năm: 1988 (vắng mặt) Địa chỉ: Ấp 4, xã P, huyện M, tỉnh HG
4. Trần Thị Mỹ Ph1, sinh năm: 1992 (vắng mặt) Địa chỉ: Ấp H, xã Mỹ, huyện Hòn Đ, tỉnh KG.
5. Nguyễn Thị Bích Ph2, sinh năm: 2003 (vắng mặt) Địa chỉ: Ấp Đ, xã B, huyện Lấp V, tỉnh ĐT
6. Võ Thị Bách H3, sinh năm: 2003 (vắng mặt) Địa chỉ: Ấp Long Th, xã Long Ph, thị xã M, tỉnh HG.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 12 giờ 30 phút ngày 23/3/2023, tại phòng 8888 của quán Karaoke D (tọa lạc tại khu vực Bình Thạnh B, phường Bình Thạnh, thị xã L, tỉnh H) có 06 người nhậu và hát Karaoke gồm: ông Đoàn Thanh H1, ông Nguyễn Thanh H2, bà Nguyễn Thị Thúy A1, bà Nguyễn Thị Bích Ph2, bà Trần Thị Mỹ Ph1 và bà Võ Thị Bách H3. Su đó, ông H1 điện thoại cho ông Đinh Minh Th4 (tên gọi khác là T) đến quán nhậu chung thì ông Th4 có rủ thêm bị cáo Nguyễn Minh Th (tên gọi khác là Đ, là bạn của ông Th4 Xích) cùng đến quán D nhậu chung. Đến khoảng gần 17 giờ cùng ngày thì ông Th4 Xích và bị cáo Th đến quán D. Trong lúc nhậu thì giữa ông Th4 Xích và bà A1 xảy ra cự cãi và chửi thề “Đụ má, đụ mẹ” về việc ông Th4 Xích có cho anh trai bà A1 mượn tiền nhưng chưa trả. Một lúc sau, bà A1 đứng lên rồi nói “Lần này tao trả, lần sau mấy thằng mày cho mượn nữa là con chó!”. Bị cáo Th nghe vậy nên tức giận và nảy sinh ý định gây thương tích cho bà A1 để hả giận. Lúc này, bị cáo Th đang ngồi cách vị trí bà A1 đang đứng khoảng 02 (hai) mét, tay trái bị cáo Th cầm cái ly thủy tinh có tay cầm (loại dùng uống bia), bên trong có nước bia đang để ở trên bàn rồi đứng lên và ném (chọi) thẳng vào vùng mặt phía bên phải của bà A1 một cái gây thương tích, chiếc ly thì rơi xuống ghế nệm trong phòng hát rồi lăn xuống nền gạch nhưng không bị vỡ (bể). Su đó bị cáo Th và ông Th4 Xích rời khỏi quán D, đến sáng ngày 24/3/2023 thì bị cáo Th đến Công an phường Bình Thạnh đầu thú. Su khi sự việc xảy ra thì ông H1 gọi điện thoại trình báo sự việc với Công an phường Bình Thạnh. Bà A1 được đưa đến Trung tâm Y tế thị xã cấp cứu, đến ngày 24/3/2023 thì được chuyển đến Bệnh viện đa khoa Hoàn Mỹ Cửu Long tại thành phố Cần Thơ điều trị đến ngày 27/3/2023 thì ra viện. Ngày 27/3/2023, bà Thúy A1 có đơn yêu cầu giám định tỷ lệ thương tích và khởi tố vụ án hình sự.
Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 72/KLTTCT/TTPY ngày 04/4/2023 của Trung tâm pháp y thuộc Sở Y tế tỉnh H đã kết luận về thương tích của bà Nguyễn Thị Thúy A1:
“1. Các kết quả chính: Vết sẹo gò má phải, biến đổi sắc tố da má trái. Gãy sương gò má phải.
2. Kết luận:
2.1 Tỷ lệ thương tích của từng vết thương:
- Vết sẹo gò má phải gây tổn hại đến sức khỏe hiện tại theo TT số 22/2019/TT-BYT ngày 28/8/2019 của Bộ Y tế là 12% (mười hai phần trăm).
- Biến đổi sắc tố da má trái gây tổn hại đến sức khỏe hiện tại theo TT số 22/2019/TT-BYT là 02% (hai phần trăm).
2.2 Căn cứ Thông tư số 22/2019/TT-BYT ngày 28/8/2019 của Bộ Y tế quy định tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần, xác định tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của Nguyễn Thị Thúy A1 tại thời điểm giám định là 13% (mười ba phần trăm), áp dụng phương pháp cộng tại Thông tư.
2.3 Cơ chế hình thành vết thương: Vết sẹo phần mềm gò má phải có chiều hướng từ trái sang phải, từ trước ra sau.
2.4 Vật gây thương tích: Vết sẹo trên do vật tày có cạnh gây nên”.
- Trách nhiệm dân sự: Bị hại Nguyễn Thị Thúy A1 yêu cầu bị cáo Nguyễn Minh Th phải bồi thường tổng số tiền là 150.000.000 (một trăm năm mươi triệu) đồng. Bị cáo Th đã bồi thường, khắc phục hậu quả xong cho bị hại A1 nên bị hại không có yêu cầu gì thêm.
Tại cáo trạng số 27/CT-VKS-TXLM, ngày 10/7/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã L, tỉnh H quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Minh Th ra trước Tòa án nhân dân thị xã L, tỉnh H để xét xử về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa vẫn giữ nguyên quyết định truy tố, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Minh Th phạm “Tội cố ý gây thương tích” theo quy định điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo Nguyễn Minh Th từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù về “Tội cố ý gây thương tích”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án, bị cáo được khấu trừ thời hạn tạm giam từ ngày 10/5/2023 đến ngày 23/6/2023.
Về trách nhiệm dân sự: Đã bồi thường xong.
Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 ly thủy tinh đã qua xử dụng.
Ý kiến của bị cáo: Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Ý kiến của bị hại: Về trách nhiệm hình sự đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Về trách nhiêm dân sự: bị cáo đã bồi thường xong số tiền 150.000.000 đồng nên không yêu cầu gì thêm.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa.
Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến kiểm sát viên, bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra, Điều tra viên; Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến, hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về thủ tục tố tụng: Bị hại Nguyễn Thị Thúy A1 vắng mặt nhưng có yêu cầu xét xử vắng mặt, người làm chứng Đinh Minh Th4, Đoàn Thanh H1, Nguyễn Thanh H2, Trần Thị Mỹ Ph1, Nguyễn Thị Bích Ph2, Võ Thị Bách H3 vắng mặt. Xét thấy, trong quá trình điều tra bị hại và người làm chứng đã cung cấp lời khai nên Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 292, Điều 293 Bộ luật tố tụng hình sự tiến hành xét xử vắng mặt bị hại và người làm chứng và giành quyền kháng cáo cho bị hại theo luật định.
[3] Tại phiên toà bị cáo Nguyễn Minh Th thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện theo như nội dung của cáo trạng đã nêu. Qua phân tích, đánh giá những vấn đề được tranh tụng tại phiên toà, các chứng cứ, tài liệu được thể hiện trong hồ sơ vụ án, lời khai của bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác, đã có đủ cơ sở chứng minh được rằng: Vào khoảng 17 giờ ngày 23/3/2023, do chứng kiến việc cự cãi, chửi thề tục tĩu trong lúc uống bia và hát Karaoke chung tại quán Karaoke D (tọa lạc tại khu vực Bình Thạnh B, phường Bình Thạnh, thị xã L, tỉnh H) giữa ông Đinh Minh Th4 và bà Nguyễn Thị Thúy A1 (là bạn của bị cáo Nguyễn Minh Th) nên bị cáo Th đã nảy sinh ý định và dùng chiếc ly thủy tinh, loại có tay cầm, dùng để uống bia (bên trong có chứa nước bia) chọi (ném) thẳng vào mặt bị hại A1 gây thương tích ở vùng má phải. Theo kết luận giám định, tổng tỷ lệ phần trăm thương tích hiện tại của bà Nguyễn Thị Thúy A1 là 13% (mười ba phần trăm). Hành vi dùng chiếc ly bằng thủy tinh (là loại hung khí nguy hiểm) gây thương tích cho người khác, hành vi thể hiện tính chất côn đồ mà bị cáo Nguyễn Minh Th đã thực hiện đủ yếu tố cấu thành “Tội cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm đ Khoản 2 Điều 134 BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 với tình tiết định khung tăng nặng là “Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này”. Nên Viện kiểm sát nhân dân thị xã L, tỉnh H truy tố bị cáo Nguyễn Minh Th tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[4] Xét hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Minh Th là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo, đồng thời cũng nhằm mục đích răn đe và phòng ngừa tình hình tội phạm chung.
Các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như sau:
- Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Lần phạm tội này bị cáo chưa được xóa án tích nên thuộc trường hợp tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015.
- Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Th đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đã bồi thường, khắc phục hậu quả xong cho bị hại Nguyễn Thị Thúy A1 và bị hại có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và miễn truy cứu trách nhiệm hình sự cho bị cáo; bị cáo có ông ngoại là ông Đinh Văn Đ và bà ngoại là bà Trịnh Thị S là người có công với cách mạng (ông Đ và bà S đều là Thương binh, được Nhà nước lần lượt tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng Nhất và hạng Nhì); sau khi phạm tội đã ra đầu thú. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại các điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Xét mức án mà kiểm sát viên đề nghị là phù hợp nên chấp nhận.
[5] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã bồi thường cho bị hại xong số tiền 150.000.000 đồng nên bị hại không yêu cầu bồi thường thêm.
[6] Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 (một) cái ly bằng thủy tinh trong suốt, đường kính 08cm, chiều cao 10,8cm, đã qua sử dụng.
[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 106, Điều 268, Điều 269, Điều 292 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Minh Th phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
1. Áp dụng: Điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh Th 02 (hai) năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án, bị cáo được khấu trừ thời hạn tạm giam từ ngày 10/5/2023 đến ngày 23/6/2023.
2. Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo bồi thường xong.
3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 (một) cái ly bằng thủy tinh trong suốt, đường kính 08cm, chiều cao 10,8cm, đã qua sử dụng. (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 10/7/2023 giữa cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã L và Chi cục Thi hành án dân sự thị xã L).
4.Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Nguyễn Minh Th phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.
5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án, hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.
Bản án về tội cố ý gây thương tích số 25/2023/HS-ST
Số hiệu: | 25/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Long Mỹ - Hậu Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 26/07/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về