Bản án về tội cố ý gây thương tích số 245/2021/HS-PT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 245/2021/HS-PT NGÀY 25/09/2021 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 25 tháng 9 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 184/2021/TLPT-HS ngày 05/7/2021 đối với bị cáo Nguyễn Phi L phạm tội “Cố ý gây thương tích”, do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 08/2021/HSST ngày 25/5/2021 của Tòa án nhân dân huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk.

Bị cáo có kháng cáo: Nguyễn Phi L (tên gọi khác T), sinh ngày 26/6/1984, tại tỉnh Đắk Lắk; nơi cư trú: Đường Đ, Tổ dân phố B, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Không nghề nghiệp; trình độ học vấn: 8/12; con ông Nguyễn Thanh X, sinh năm: 1950 và bà Lý Thị Mai N, sinh năm: 1960;

Tiền án, tiền sự: Có 03 tiền án.

- Năm 2004, Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xử phạt 10 năm tù, về tội: Cướp tài sản và Cố ý gây thương tích, theo bản án số 146/2004/HSST ngày 28/4/2004. Trong thời gian chấp hành án phạt tù năm 2009 bị cáo lại phạm tội mới.

- Năm 2010, Tòa án nhân dân huyện Mang Yang, tỉnh Gia Lai tuyên phạt 12 tháng tù, về tội: Cố ý gây thương tích, theo bản án số 05/2010/HSST ngày 29/01/2010. (Tổng hợp hình phạt với mức còn lại 04 năm 00 tháng 09 ngày tù của Bản án 146/2004/HSST ng ày 28/4/2004 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk) Tổng hợp hình phạt chung của 02 bản án là 05 năm 00 tháng 09 ngày tù. Ngày 24/8/2014 chấp hành xong hình phạt tù, nhưng chưa được xóa án tích.

- Năm 2016, Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk tuyên phạt 03 năm 06 tháng tù về tội: Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, theo bản án số 18/2016/HSPT ngày 19/01/2016. Ngày 24/01/2019 chấp hành xong hình phạt tù, nhưng chưa được xóa án tích.

Nhân thân: Ngày 04/5/2001, bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào Trường giáo dưỡng theo Quyết định số 1246/QĐ-UB, thời hạn 24 tháng, về hành vi: Gây rối trật tự công cộng, trấn lột tài sản, tàng trữ vũ khí trái phép. Tại Trường giáo dưỡng số 4, huyện L Thành, tỉnh Đồng Nai; đã chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính.

Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 19/01/2021, có mặt tại phiên tòa.

Người tham gia tố tụng kháng có liên quan đến kháng cáo:

- Bị hại: Anh Nguyễn Thanh K, sinh năm 1990 Trú tại: Thôn M, xã E, huyện Đ, tỉnh Đắk Lắk (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ ngày 24/4/2020, Thái Kiên C và Nguyễn Phi L đang nhậu tại nhà C thuộc thôn M, xã E, huyện Đ, tỉnh Đắk Lắk thì Nguyễn Thanh K gọi điện rủ L đánh bi da. Do trước đó L và K thường gặp gỡ chơi bi da cá cược với nhau, L đã nhiều lần bị thua khi chơi bi da với K. Biết L đánh bi da không thắng được K nên C ngăn cản không cho L tham gia, nhưng K vẫn tiếp tục gọi điện rủ L nhiều lần. Bức xúc về việc mặc dù đã từ chối nhưng K vẫn tiếp tục gọi điện rủ mình đánh bi da nên L đã rủ C đi đến quán bi da tại thôn T, xã E, huyện Đ để tìm đánh K. Khi đến quán thấy K thì cả hai cùng chạy vào đuổi đánh, do K có ý định chống trả nên C đã dùng hai tay ôm giữ K lại còn L lấy 01 cây cơ bi da có sẵn tại quán đánh nhiều phát vào vùng lưng của K. Cùng lúc này C nhặt 01 viên gạch xây dựng (gạch 04 lỗ) đánh vào đầu K gây thương tích.

Sau khi thực hiện hành vi gây thương tích cho K, thì L còn buộc K phải xin lỗi mình.

Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 553/TgT -TTPY ngày 25/5/2020 của Trung tâm pháp y tỉnh Đắk Lắ k kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại của Nguyễn Thanh K là 3%. Gồm các vết thương sau:

- Vết thương nằm dọc giữa đỉnh đầu để lại sẹo kích thước 2cm x 0,2cm, tỷ lệ thương tích 1%, do vật tày hoặc vật tày có cạnh tác động trực tiếp gây nên có chiều hướng từ trên xuống dưới;

- Vết thương nằm ngang (hơi cong mở xuống dưới) giữa vùng chẩm để lại sẹo kích thước 2cm x 0,3cm, tỷ lệ thương tích 1%, do vật tày có cạnh tác động trực tiếp gây nên có chiều hướng từ trên xuống dưới, t ừ sau ra trước;

- Xây xát da lưng làm biến đổi sắc tố da lưng trái kích thước 6cm x 01cm, tỷ lệ thương tích 1%, do vật tày tác động trực tiếp gây nên có chiều hướng từ trên xuống dưới, từ sau ra trước.

Sau khi sự việc xảy ra Thái Kiên C đã thỏa thuận bồi thường thiệt hại cho Nguyễn Thanh K số tiền 40.000.000đồng. Ngày 10/6/2020 Nguyễn Thanh K đã có đơn đề nghị không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Thái Kiên C.

Đối với Nguyễn Phi L, sau khi sự việc xảy ra L đã bỏ trốn nên ngày 10/6/2020, anh Nguyễn Thanh K đã có đơn đề nghị khởi tố vụ án hình sự đối với Nguyễn Phi L. Ngày 26/6/2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Buôn Đôn ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự và Quyết định khởi tố bị can đối với Nguyễn Phi L, về tội: Cố ý gây thương tích, theo quy định tại Điều 134 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, Nguyễn Phi L đã bỏ trốn khỏi địa phương nên ngày 02/10/2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra đã ra Quyết định truy nã đối với Nguyễn Phi L.

Ngày 19/01/2021, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột đã bắt được bị cáo Nguyễn Phi L khi đang lẩn trốn tại thành phố Buôn Ma Thuột.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 08/2021/HSST ngày 25/5/2021 của Tòa án nhân dân huyện Buôn Đôn, đã quyết định:

Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Phi L phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Về hình phạt: Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 134; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Phi L 02 (hai) năm tù, thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt người đang bị truy nã, ngày 19/01/2021.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về vật chứng, về trách nhiệm dân sự, về án phí và quyền kháng cáo cho bị cáo và các đương sự theo quy định của pháp luật.

Ngày 26/5/2021 bị cáo Nguyễn Phi L kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo vẫn giữ nguyên nội dung đơn kháng cáo và đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Đại điện Viện kiểm sát đã phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Phi L và khẳng định: Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 134 BLHS năm 2015 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Xét mức hình phạt 02 năm tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt đối với bị cáo là phù hợp. Do vậy, đề nghị HĐXX căn cứ khoản 1 Điều 355 và Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm.

Bị cáo cho rằng bản thân bị cáo phạm tội nhưng không thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm nên đề nghị HĐXX xem xét và giảm hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai của bị cáo Nguyễn Phi L tại phiên toà phúc thẩm là phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với các tài liệu chứng cứ đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 20 giờ, ngày 24/4/2020, tại quán bi da thuộc thôn T, xã E, huyện Đ, tỉnh Đắk Lắk, Nguyễn Phi L và Thái Kiên C đã dùng 01 cây cơ bi da và 01 viên gạch xây dựng (gạch 04 lỗ) gây thương tích cho Nguyễn Thanh K. Hậu quả làm K bị thương tích, tỷ lệ 03% (ba phần trăm). Ngày 10/6/2020, anh Nguyễn Thanh K đã có đơn đề nghị khởi tố vụ án hình sự đối với Nguyễn Phi L. Vì vậy, cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Nguyễn Phi L về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm d khoản 2 Điều 134 BLHS năm 2015 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo L thấy rằng: Mức hình phạt 02 năm tù mà cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội do bị cáo gây ra. Bởi lẽ, là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, và nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng xuất phát từ ý thức coi thường sức khỏe của người khác nên bị cáo đã có hành vi dùng cây cơ bi da đánh gây thương tích cho anh K. Bị cáo có 03 tiền án nhưng không lấy đó làm bài học mà tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội thể hiện ý thức coi thường pháp luật, bị cáo phạm tội với tình tiết “Tái phạm nguy hiểm” theo quy định tại điểm d, khoản 2 Điều 134 BLHS. Hơn nữa, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tại cấp phúc thẩm bị cáo không cung cấp thêm tình tiết nào mới. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm không có căn cứ chấp nhận kháng cáo mà cần giữ nguyên mức hình phạt đối với bị cáo.

[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[4] Về án phí hình sự phúc thẩm: Do không được chấp nhận kháng cáo nên bị cáo Nguyễn Phi L phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự.

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Phi L - Giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số: 08/2021/HSST ngày 25/5/2021 của Tòa án nhân dân huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk.

[2] Về điều luật áp dụng và mức hình phạt:

Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 134; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Phi L 02 (hai) năm tù về tội: “Cố ý gây thương tích”, thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ, tạm giam ngày 19/01/2021.

[3] Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Nguyễn Phi L phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

294
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 245/2021/HS-PT

Số hiệu:245/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về