Bản án về tội cố ý gây thương tích số 24/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KRÔNG NÔ, TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 24/2023/HS-ST NGÀY 23/06/2023 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

 Ngày 23 tháng 6 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Krông Nô, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 26/2023/HSST ngày 24 tháng 5 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 23/2023/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 6 năm 2023; Quyết định hoãn phiên tòa số: 174/2023/QĐST-HS ngày 16/6/2023; Thông báo về việc thay đổi thời gian xét xử vụ án số: 176/TB- TA, ngày 19/6/2023, đối với bị cáo:

Đinh Xuân N, sinh năm 2000 tại tỉnh Đắk Nông; Nơi cư trú: Thôn Đ, xã Đ, huyện K, tỉnh Đắk Nông; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ học vấn: 7/12; Nghề nghiệp: Làm nông; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đinh Xuân S, sinh năm 1971 và bà Lê Thị T, sinh năm 1975; 02 tiền sự: Ngày 19/8/2021 bị Ủy ban nhân dân huyện K xử phạt vi phạm hành chính số tiền 7.500.000 đồng về hành vi không chấp hành các biện pháp phòng, chống dịch bệnh truyền nhiễm theo yêu cầu của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền, chưa chấp hành; Ngày 21/02/2022 bị Ủy ban nhân dân thị trấn Đ xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.500.000 đồng về hành vi đánh bạc, nộp phạt ngày 31/5/2022, chưa xoá tiền sự; Bị bắt tạm giam từ ngày từ ngày 09/02/2023, đang tạm giam– Có mặt.

- Bị hại:

- Anh Lý Văn T1, sinh năm 1994- Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

Địa chỉ: Bon P, xã N1, huyện K, tỉnh Đắk Nông.

- Anh Trần Văn T2, sinh năm 1992- Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

Địa chỉ: Thôn N, xã N2, huyện K, tỉnh Đắk Nông.

- Người tham gia tố tụng khác:

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Ông Đinh Xuân S, sinh năm 1971 và bà Lê Thị T, sinh năm 1975 – Đều có mặt.

Địa chỉ: Thôn Đ, xã Đ, huyện K, tỉnh Đắk Nông.

- Nguyên đơn dân sự:

Bà Lò Thị H, sinh năm 1977 và anh Phạm Hoàng V, sinh năm 1995- Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

Địa chỉ: Bon P, xã N1, huyện K, tỉnh Đắk Nông.

- Người làm chứng:

- Anh Nguyễn Ngọc H, sinh năm 2001- Vắng mặt.

Địa chỉ: Bon P, xã N1, huyện K, tỉnh Đắk Nông.

- Anh Đặng Ngọc T3, sinh năm 2001- Vắng mặt.

Địa chỉ: Bon P, xã N1, huyện K, tỉnh Đắk Nông.

- Anh Đặng Quyết T4, sinh năm 2001 – Vắng mặt.

Địa chỉ: Bon P, xã N1, huyện K, tỉnh Đắk Nông.

- Anh Đậu Quốc H, sinh năm 1995 – Vắng mặt.

Địa chỉ: Tổ 1, thị trấn Đ, huyện K, tỉnh Đắk Nông.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ ngày 25/12/2022, Đinh Xuân N đến quán V (địa chỉ: Bon P, xã N1, huyện K, tỉnh Đắk Nông) của bà Lò Thị H và anh Phạm Hoàng V làm chủ để nhậu cùng với Nguyễn Văn K, Nguyễn Ngọc H, Đặng Ngọc T3, Đặng Quyết T4, Nguyễn Văn H, Trần Văn Đ. Cạnh bàn nhậu của nhóm Đinh Xuân N còn có bàn nhậu của anh Trần Văn T2 và anh Lý Văn T1, anh Bàn Văn T5 sau đó thì anh Bàn Văn T5 có việc nên đi về sau đó có anh Đậu Quốc H ngồi nhậu cùng T1, T2. Trong thời gian ngồi nhậu thì thì Đặng Quyết T4 có sang bàn của T1, T2, T5 để mời rượu. Giữa N và Đặng Quyết T4 cũng xảy ra mâu thuẫn với nhau, thấy trong bàn có xích mích, mâu thuẫn nên K không nhậu nữa mà đi về. Sau đó, Đặng Quyết T4 cầm chai đựng rượu bằng nhựa ném về phía N và tát N một cái, vì bực tức không đánh được T4 (do T4 là anh trai bạn gái của N) nên N đứng dậy cầm 01 ghế gỗ ở bàn bên cạnh giơ lên đập trúng vùng đầu của T2 và vùng mặt, đầu của T1 thì ghế bị tuột khỏi tay N rơi xuống, N xô đổ bàn ghế gỗ bên cạnh bàn của N tiến về phía bàn của T1 và T2, T1 bị đau nên chạy ra khỏi quán, T2 bị ngã xuống đất, N tiếp tục cầm ghế đánh T2 thì T2 đưa tay lên đỡ được và bỏ chạy, thấy N đánh T1 và T2, H sợ bị đánh nên bỏ chạy vào trong nhà, N đuổi theo dùng tay túm cổ áo và đấm T2 vào mặt, ngực. Sau đó mọi người can ngăn nên N không đánh T2 nữa, N vào thanh toán tiền cho quán rồi đi về, T1 chở T2 vào Trạm y tế xã N1 xử lý vết thương và đi về, do đau vết thương nên ngày 26/12/2022 T1 tiếp tục đến khám tại Bệnh viện đa khoa T và trình báo vụ việc tại Công an xã N1, huyện K.

Kết luận giám định pháp y về thương tích số: 126/TgT-TTPY ngày 10/01/2023 của Trung tâm pháp y tỉnh Đ đối với Lý Văn T1, kết luận:

- Dấu hiệu chính qua giám định: Vết thương để lại sẹo nằm ngang vùng cung mày phải, kích thước 3,5cm x 0,2 cm; Vết thương để lại sẹo nằm chéo vùng khóe ngoài mắt phải (cách bờ mi dưới mắt phải 0,5cm), kích thước 01 cm x 0,1 cm; gãy xương chính mũi.

- Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do từng thương tích hiện tại là: Vết thương để lại sẹo nằm ngang vùng cung mày phải, kích thước 3,5cm x 0,2 cm, tỷ lệ 3%; Vết thương để lại sẹo nằm chéo vùng khóe ngoài mắt phải (cách bờ mi dưới mắt phải 0,5cm), kích thước 01 cm x 0,1 cm, tỷ lệ 3%; gãy xương chính mũi, tỷ lệ 8%.

- Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại: Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do thương tích sau khi tổng hợp (cộng) các tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do từng thương tích hiện tại là 13%.

- Vật tác động: Vật tày cứng có cạnh.

- Cơ chế hình thành thương tích: Vết thương để lại sẹo nằm ngang vùng cung mày phải và vết thương để lại sẹo nằm chéo vùng khóe ngoài mắt phải do vật tày cứng có cạnh tác động trực tiếp gây nên có chiều hướng từ trên xuống dưới, từ trước ra sau; gãy xương chính mũi do vật tày cứng có cạnh tác động trực tiếp gây nên có chiều hướng từ trên xuống dưới, từ trước ra sau.

Kết luận giám định pháp y về thương tích số: 127/TgT-TTPY ngày 10/01/2023 của Trung tâm pháp y tỉnh Đ đối với Trần Văn T2, kết luận:

- Dấu hiệu chính qua giám định: Vết sây xát để lại sẹo nằm ngang thái dương-đỉnh phải (cách vành tai phải 8,5cm, các đường giữa đỉnh 7,5cm), kích thước 0,2cm x 1 cm.

- Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do từng thương tích hiện tại là: 1%.

- Vật tác động: Vật tày cứng có cạnh.

- Cơ chế hình thành thương tích: Vết sây xát để lại sẹo nằm ngang thái dương-đỉnh phải do vật tày cứng có cạnh tác động trực tiếp gây nên có chiều hướng từ trên xuống dưới, từ phải qua trái.

Việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật: Quá trình điều tra Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Krông Nô thu giữ:

- 01 (một) ghế bằng gỗ có lưng dựa cao 90 cm, mặt ghế có kích thước 42x40 cm, mặt ghế có chiều cao 44 cm, ghế bị gãy 01 thanh gỗ.

- 01 (một) áo khoác loại có mũ chui không có khóa kéo, màu vàng có dòng chữ ESSENTIALS nằm ngang màu đen trước ngực, áo bị rách từ phần cổ áo xuống trước ngực.

Tại bản Cáo trạng số: 29/CT-VKS- KrN, ngày 24/5/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Nô đã truy tố bị cáo Đinh Xuân N về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) huyện Krông Nô giữ nguyên quan điểm truy tố đối với Đinh Xuân N về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật hình sự. Sau khi phân tích các tình tiết, tăng nặng trách nhiệm hình sự, đại diện VKS đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX):

Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của BLHS.

Xử phạt bị cáo Đinh Xuân N từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giam ngày 09/02/2023.

Về các biện pháp tư pháp: Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 46, 48 BLHS;

Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) đề nghị HĐXX tuyên:

- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) áo khoác có đặc điểm như biên bản giao nhận đồ vật, tài liệu, vật chứng ngày 25/5/2023 giữa Cơ quan Công an huyện Krông Nô và Chi cục Thi hành án dân sự huyện K.

- Trả lại cho bà Lò Thị H và ông Phạm Hoàng V (Chủ quán V) 01 (một) ghế bằng gỗ.

Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra bị cáo đã thỏa thuận bồi thường cho bị hại, bị hại không yêu cầu bồi thường gì thêm nên không giải quyết. Bà Lò Thị H và anh Phạm Hoàng V không yêu cầu bồi thường gì thêm nên không xem xét giải quyết.

Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo không bào chữa gì mà xin HĐXX giảm nhẹ hình phạt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Đinh Xuân S và bà Lê Thị T không yêu cầu bị cáo có trách nhiệm phải trả lại số tiền ông bà đã bồi thường cho bị hại.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an huyện Krông Nô, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Nô, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Đối với hành vi phạm tội của bị cáo Hội đồng xét xử thấy rằng:

Do ý thức coi thường pháp luật, coi thường sức khỏe của người khác nên vào khoảng 18 giờ ngày 25/12/2022, tại quán V (địa chỉ: Bon P, xã N1, huyện K), Đinh Xuân N đã dùng ghế đập vào vùng đầu của T2 và vùng mặt, đầu của T1 thì ghế bị tuột khỏi tay N rơi xuống, N xô đổ bàn ghế gỗ bên cạnh bàn của N tiến về phía bàn của T2 và T1, T1 bị đau nên chạy ra khỏi quán, T2 bị ngã xuống đất, N tiếp tục cầm ghế đánh T2 thì T2 đưa tay lên đỡ được và bỏ chạy, thấy N đánh T2 và T1, H sợ bị đánh nên bỏ chạy vào trong nhà, N đuổi theo dùng tay túm cổ áo và đấm T2 vào mặt, ngực. Hậu quả gây thương tích 13% cho anh Lý Văn T1 và thương tích 1% cho anh Trần Văn T2.

Như vậy với hành dùng ghế gỗ là hung khí nguy hiểm đánh anh T1, anh T2 khi bị cáo không có mâu thuẫn gì với anh T1, anh T2 đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 của BLHS.

VKSND huyện Krông Nô truy tố bị cáo Đinh Xuân N về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 của BLHS là có căn cứ pháp lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Điều 134 Bộ luật Hình sự quy định:

“1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Dùng hung khí nguy hiểm;

i) Có tính chất côn đồ;

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 06 năm:

đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này.” [3] Xét tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo đã dùng ghế gỗ là hung khí nguy hiểm đánh vùng đầu, mặt của anh T1, đánh, túm cổ áo, đám ngực của anh T2 khi bị cáo không có mâu thuẫn gì với anh T1, anh T2 gây tỉ lệ thương tích 13% cho anh Lý Văn T1 và thương tích 1% cho anh Trần Văn T2. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để giáo dục, cải tạo bị cáo và răn đe phòng ngừa chung trong xã hội.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo N không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo đối với hành vi phạm tội của mình, bị cáo đã tác động gia đình bồi thường cho các bị hại, các bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Ngoài ra bị cáo có ông bà nội, ngoại là người có công với cách mạng, đây là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử xem xét để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

[6] Về mức hình phạt: Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo dùng ghế gỗ là hung khí nguy hiểm gây thương tích cho 02 người. Bị cáo thực hiện hành vi rất hung hăng đánh vào vùng trọng yếu trên cơ thể rất nguy hiểm, trong khi bị cáo không có mâu thuẫn với bị hại. Bị cáo có 02 tiền sự, tại Quyết định số: 2006/QĐ-XPVPHC, ngày 19/8/2021 bị Ủy ban nhân dân huyện K xử phạt vi phạm hành chính số tiền 7.500.000 đồng về hành vi không chấp hành các biện pháp phòng, chống dịch bệnh truyền nhiễm theo yêu cầu của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền, bị cáo chưa chấp hành; Quyết định số: 01/QĐ-CPHC, ngày 21/02/2022 bị Ủy ban nhân dân thị trấn Đ xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.500.000 đồng về hành vi đánh bạc, nộp phạt ngày 31/5/2022, chưa xoá tiền sự, điều đó thể hiện bị cáo ý thức coi thường pháp luật, thường xuyên vi phạm pháp luật, không tu dưỡng, rèn luyện bản thân. Tuy nhiên bị cáo phạm tội gây tỉ lệ thương tích gần đầu khung hình phạt, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên xử phạt bị cáo mức trên khởi điểm là phù hợp.

[7] Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát đề nghị về mức hình phạt đối với bị cáo về cơ bản là phù hợp nên HĐXX chấp nhận.

[8] Về các biện pháp tư pháp: Xử lý vật chứng:

[8.1] Đối với đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 (một) áo khoác phù hợp với quy định tại điểm a khoản 1 Điều 46; điểm a khoản 1 Điều 47 BLHS và điểm a, c khoản 2 Điều 106 BLTTHS nên cần chấp nhận.

[8.2] Đối với 01 (một) ghế bằng gỗ còn giá trị sử dụng, chủ sở hữu hợp pháp là bà Lò Thị H và ông Phạm Hoàng V (Chủ quán V) có yêu cầu được nhận lại vì vậy việc đề nghị trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là phù hợp quy định tại 48 BLHS; khoản 3 Điều 106 BLTTHS nên cần chấp nhận.

Các vật chứng có đặc điểm như biên bản giao nhận đồ vật, tài liệu, vật chứng ngày 25/5/2023 giữa Cơ quan Công an huyện Krông Nô và Chi cục Thi hành án dân sự huyện K [9] Về trách nhiệm dân sự:

[9.1] Quá trình điều tra bị cáo đã thỏa thuận bồi thường cho bị hại, bị hại không yêu cầu bồi thường gì thêm nên không giải quyết.

[9.2] Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Đinh Xuân S và bà Lê Thị T không yêu cầu bị cáo có trách nhiệm phải trả lại số tiền ông bà đã bồi thường cho bị hại nên không giải quyết.

[9.3] Nguyên đơn dân sự là bà Lò Thị H và anh Phạm Hoàng V không yêu cầu bồi thường gì thêm nên không xem xét giải quyết.

[10] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[11] Về quyền kháng cáo: Bị cáo và các đương sự có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Đinh Xuân N phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Đinh Xuân N 02 (hai) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giam ngày 09/02/2023.

2. Về biện pháp tư pháp xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 46, 48 BLHS; Điều 106 của BLTTHS.

- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) áo khoác.

- Trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là bà Lò Thị H và ông Phạm Hoàng V 01 chiếc ghế gỗ.

Các vật chứng có đặc điểm như biên bản giao nhận đồ vật, tài liệu, vật chứng ngày 25/5/2023 giữa Cơ quan Công an huyện Krông Nô và Chi cục Thi hành án dân sự huyện K.

3. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Đinh Xuân N phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo bản án về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ theo quy định. Nguyên đơn dân sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án liên quan đến phần bồi thường thiệt hại trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ theo quy định.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

69
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 24/2023/HS-ST

Số hiệu:24/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Krông Nô - Đăk Nông
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về