Bản án về tội cố ý gây thương tích số 234/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 234/2023/HS-PT NGÀY 19/07/2023 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 19 tháng 7 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 47/2023/TLPT-HS ngày 13 tháng 02 năm 2023 đối với bị cáo Lê Trung H; do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 564/2022/HS-ST ngày 20-12-2022 của Tòa án nhân dân thành phố B.

Bị cáo có kháng cáo: Lê Trung H, sinh năm 1994 tại Cà Mau; Giấy chứng minh nhân số: 38173507X, do Công an tỉnh Cà Mau cấp ngày 18/12/2015; nơi đăng ký thường trú: Khóm X, thị trấn C, huyện P, tỉnh Cà Mau; nơi cư trú (Nhà trọ P1): Tổ X1, Ấp X2, xã A, huyện L, tỉnh Đồng Nai; giới tính: Nam; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hóa (học vấn): 8/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Xuân V và bà Lương Hồng T (đã chết); tiền sự: Không; tiền án: Không; hiện nay, bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú theo Lệnh số: 64/2023/LCĐKNCT ngày 21- 02-2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai; có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

1. Nội dung chính:

Lê Trung H và anh Võ Hoàng Q là đồng nghiệp của nhau, cùng làm chung tại xưởng sản xuất ghế của Công ty Trách nhiệm hữu hạn T có trụ sở tại Đường số Y, Khu Công nghiệp T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

Vào khoảng 07 giờ 10 phút ngày 18/01/2022, trong lúc làm việc, giữa H và anh Q xảy ra mâu thuẫn cãi nhau về chỗ đứng làm việc, dẫn đến xô xát và đánh nhau nhưng được mọi người can ngăn, nên không ai bị thương tích.

Sau khi được can ngăn, giữa H và anh Q vẫn tiếp tục lời qua tiếng lại; anh Q có lời lẽ đe dọa ra về sẽ đánh H. Thấy anh Q thách thức, đe dọa đánh mình, H cầm 01 cây kéo có đầu nhọn dài khoảng 20 cm đến đâm 01 cái trúng vào vai trái của anh Q; lúc này, anh Q lùi lại phía sau cầm 01 thanh gỗ vuông dài khoảng 80 cm đánh trúng vào bả vai trái của H (không gây ra thương tích); sau đó, anh Q lao vào đè H nằm ngửa xuống bàn làm việc và dùng tay đấm vào mặt H. Bị anh Q đè xuống bàn, H cầm kéo tay phải vòng ra sau lưng anh Q đâm liên tiếp 03 nhát vào vùng lưng của anh Q gây thương tích. Thấy H và anh Q đánh nhau thì chủ quản người Trung Quốc vào can ngăn thì cả hai dừng lại.

Vật chứng:

- Thu giữ tại hiện trường 01 cây kéo có đầu nhọn dài khoảng 20 cm là hung khí Lê Trung H dùng gây thương tích cho anh Võ Hoàng Q.

- Đối với thanh gỗ dài khoảng 80 cm anh Q dùng để đánh H, sau khi sự việc xảy ra, anh Q vứt bỏ tại hiện trường, nhân viên lao công của công ty đã dọn dẹp vứt bỏ nên không thu giữ được.

2. Giám định:

Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số: 0635/TgT/2022 ngày 14/6/2022 và Công văn số: 347/TTPY/2022 ngày 15/8/2022 của Trung tâm Pháp y - Sở Y tế tỉnh Đồng Nai, kết luận Võ Hoàng Q bị tổn thương như sau:

- Tổn thương đứt cơ Delta, điểm bám gân cơ Delta trái hiện để lại hạn chế động tác xoay vai trái. Tỷ lệ: 11% - Sẹo đỉnh vai trái kích thước 4,5x0,6cm. Tỷ lệ: 02% - Sẹo lưng phải cạnh cột sống ngang D6 kích thước 01x0,2cm. Tỷ lệ: 01% - Sẹo dưới vai trái kích thước 1,2x0,2cm. Tỷ lệ: 01% - Sẹo dưới vai trái kích thước 04x0,2cm. Tỷ lệ: 01% - Sẹo dưới vai trái kích thước 03x0,2cm. Tỷ lệ: 01% - Sẹo bờ trong vai trái kích thước 01x0,2cm. Tỷ lệ: 01% - Sẹo bờ trong vai trái kích thước 01x0,2cm. Tỷ lệ: 01% Kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định của nạn nhân Võ Hoàng Q là: 18% (mười tám phần trăm). Vật gây thương tích: Vật sắc nhọn.

3. Dân sự:

Tại cấp sơ thẩm, Lê Trung H đã bồi thường số tiền 4.000.000 đồng (bốn triệu đồng) chi phí điều trị cho anh Võ Hoàng Q. Anh Q đã có đơn “bãi nại”, xin giảm nhẹ hình phạt cho H.

4. Quyết định của cấp sơ thẩm:

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 564/2022/HS-ST ngày 20-12-2022 của Tòa án nhân dân thành phố B, đã quyết định:

- Tuyên bố bị cáo Lê Trung H phạm tội “Cố ý gây thương tích”, theo điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

- Xử phạt bị cáo Lê Trung H 02 (hai) năm tù.

- Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí hình sự sơ thẩm, án phí dân sự sơ thẩm và quyền kháng cáo theo luật định.

5. Kháng cáo:

Trong thời hạn luật định, bị cáo Lê Trung H kháng cáo, đề nghị được giảm nhẹ hình phạt.

6. Quan điểm của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai tại phiên tòa phúc thẩm:

Kiểm sát viên đã đánh giá, phát biểu quan điểm xử lý vụ án; xác định cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Lê Trung H phạm tội “Cố ý gây thương tích”, theo điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ, đúng người, đúng tội và hình phạt đối với bị cáo là phù hợp. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tội danh:

Tại phiên tòa, bị cáo Lê Trung H thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như bản án sơ thẩm đã nêu. Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo phạm tội “Cố ý gây thương tích”, theo điểm a khoản 1 và điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ và đúng pháp luật.

[2] Về kháng cáo:

2.1. Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

2.2. Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Tại cấp sơ thẩm, xác định: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đã bồi thường dân sự và được bị hại làm đơn “bãi nại”; phạm tội lần đầu; nhân thân tốt; bị hại cũng có phần lỗi. Các tình tiết này, được quy định tại điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

- Tại phiên tòa phúc thẩm: Bị cáo trình bày mẹ mất sớm, cha bệnh phải chạy thận, bản thân bị cáo cùng cha phải ở nhà trọ và bị cáo phải đi làm để nuôi cha. Áp dụng khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 cho bị cáo.

2.3. Về hình phạt:

Với hành vi phạm tội như trên, cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo Lê Trung H 02 năm tù là đã xem xét và phù hợp. Tại phiên tòa phúc thẩm, với tình tiết mới nêu trên, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đủ điều kiện để quyết định dưới khung hình phạt; do đó, chấp nhận kháng cáo, giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[3] Về án phí:

Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; áp dụng Nghị quyết số: 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; bị cáo Lê Trung H không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[4] Không chấp nhận quan điểm của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai tại phiên tòa phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355 và điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Trung H;

Sửa một phần về hình phạt do khách quan đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 564/2022/HS-ST ngày 20-12-2022 của Tòa án nhân dân thành phố B.

1. Tội danh và hình phạt:

Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Xử phạt bị cáo Lê Trung H 01 (một) năm 08 (tám) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời hạn tù tính từ ngày người bị kết án Lê Trung H vào cơ sở giam giữ chấp hành án phạt tù.

2. Về án phí:

Bị cáo Lê Trung H không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

3. Quyết định của bản án sơ thẩm về xử lý vật chứng và án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

67
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 234/2023/HS-PT

Số hiệu:234/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/07/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về