TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
BẢN ÁN 233/2023/HS-PT NGÀY 20/11/2023 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Mở phiên tòa ngày 20 tháng 11 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 258/2023/TLPT- HS ngày 17 tháng 10 năm 2023, đối với bị cáo Ma Văn B, do có kháng cáo của bị cáo, đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 39/2023/HS-ST ngày 24 tháng 8 năm 2023, của Tòa án nhân dân huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk.
- Bị cáo kháng cáo: Ma Văn B, sinh năm 1989, tại tỉnh Lạng Sơn; nơi ĐKHKTT và chỗ ở trước khi phạm tội: Thôn X, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ học vấn: 1/12; dân tộc: Tày; Giới tính: Nam; con ông: Ma Văn M (đã chết) và bà Nông Thị C; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.
- Người bào chữa cho bị cáo: Bà Phan Thị T – Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Đắk Lắk, địa chỉ: Số 39 L, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, có mặt.
- Người bị hại:
+ Anh Nguyễn Văn N, trú tại: Thôn T, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk, vắng mặt.
+ Bà Hồ Thị H, trú tại: Thôn X, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk, có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 21 giờ ngày 20/01/2023, sau khi đã uống rượu tại nhà, Ma Văn B mang theo 01 con dao giấu trong người đi bộ ra ngoài đường. Khi đi ngang qua nhà ông Lường Văn T ở cùng thôn thì thấy có một số người, trong đó có anh Nguyễn Văn N đang ngồi nhậu phía bên hông nhà ông T, B đi vào xin ngồi nhậu cùng nhưng nhóm anh N không đồng ý vì nhậu sắp xong. Do đó, B bực tức lấy con dao trong túi quần ra chém nhiều nhát xuống chiếu mà nhóm anh N đang ngồi, rồi B và anh N xảy ra xô xát, chửi bới nhau. Nghe thấy tiếng ồn ào, bà Hồ Thị H (vợ ông T) từ trong nhà chạy ra can ngăn, kéo B đi ra cổng và nói B đi về. Lúc này, N đi vào nhà nói với Lường Quốc H1 (con trai ông Nên) “H1 ơi ai cầm dao vào nhà mình kìa”. Nghe vậy, H1 chạy ra cổng cãi nhau với B rồi quay lại vào sân. H1 và N nhặt mỗi người một khúc gậy gỗ trên sân xông ra đánh B, B rút dao trong túi quần ra đánh trả lại N và H1; N bị dao của B chém trúng vào vùng mặt. Thấy vậy bà Hồ Thị H vào can ngăn thì B đẩy bà H ra để tiếp tục đánh nhau với N thì dao của B chém trúng vào mặt bà H. Hậu quả anh N và bà H bị B dùng dao đánh vào mặt gây thương tích; B cũng bị anh N dùng gậy đánh vào người gây thương tích nhẹ. Sau đó anh N và bà H được người nhà đưa đi Bệnh viện đa khoa Vùng Tây Nguyên điều trị vết thương. Còn B do vết thương nhẹ nên không đi điều trị.
Tại bản kết luận giám định số: 09/KLTTCT-PY ngày 03/03/2023 của Trung tâm pháp y tỉnh Đắk Lắk, đối với thương tích của bà Hồ Thị H: vết thương để lại sẹo kéo dài từ vùng sống mũi đến má trái, gần giống chữ Y, bờ đều, kích thước (9x0,1)cm có tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do thương tích gây nên là 06%; cơ chế hình thành thương tích do vật sắc tác động trực tiếp gây nên có chiều hướng từ trước ra sau.
Tại bản kết luận giám định số: 10/KLTTCT-PY ngày 03/03/2023 của Trung tâm pháp y tỉnh Đắk Lắk, đối với thương tích của anh Nguyễn Văn N: xây xát gò má trái để lại sẹo mờ dưới gò má trái, sát chân tóc mai trái, bờ đều kích thước (3x0,1)cm; Vết thương má trái để lại sẹo kéo dài từ chân tóc mai tới khóe miệng trái, bờ đều kích thước (7,5x0,1)cm; Vết thương dưới môi trái để lại sẹo kéo dài từ môi dưới tới cằm trái, hơi cong mở sang trái, bờ đều kích thước (5x0,1)cm có tỉ lệ phần trăm cơ thể do thương tích gây nên là 12%. Cơ chế hình thành thương tích do vật sắc tác động trực tiếp gây nên có chiều hướng từ trên xuống dưới từ trước ra sau.
Bản án hình sự sơ thẩm số: 39/2023/HS-ST ngày 24/8/2023, của Tòa án nhân dân huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk, đã quyết định:
Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Xử phạt: Ma Văn B 02 năm 03 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên về phần trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.
Ngày 29/8/2023, bị cáo Mã Văn B có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt tù, xin được hưởng án treo và xem xét giảm mức bồi thường.
Ngày 06/10/2023, bị cáo Mã Văn B có đơn xin rút một phần kháng cáo đối với phần trách nhiệm dân sự, chỉ kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt tù và xin được hưởng án treo.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản án sơ thẩm đã nêu.
Quá trình tranh luận tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát đã phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và cho rằng Toà án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Xét mức hình phạt 02 năm 03 tháng tù mà Toà án cấp sơ thẩm đã xử phạt đối với các bị cáo là thoả đáng, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Tuy nhiên, tại cấp phúc thẩm bị cáo cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo, sửa Bản án sơ thẩm xử phạt bị cáo 02 năm tù.
Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị tiếp tục có hiệu lực pháp luật từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.
Tại phiên toà, Trợ giúp viên pháp lý bào chữa cho bị cáo cho rằng: Toà án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tuy nhiên bị cáo là người dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng kinh tế đặc biệt khó khăn, không biết chữ nên nhận thức pháp luật rất hạn chế; bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, có nơi cư trú rõ ràng; sau khi phạm tội bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; hiện nay đã bồi thường toàn khắc phục hậu quả cho người bị hại, được người bị hại bãi nại; bị cáo là con một đang phải nuôi mẹ già nên đề nghị HĐXX áp dụng Điều 65 Bộ luật hình sự để chấp nhận kháng cáo của bị cáo, cho bị cáo giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo.
Bị cáo đồng ý với ý kiến của Trợ giúp viên pháp lý và không tranh luận bào chữa gì thêm, chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được hưởng treo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Xét lời khai của bị cáo Ma Văn B tại phiên toà phúc thẩm, là phù hợp với lời khai của bị cáo tại phiên toà sơ thẩm; phù hợp với lời khai của người bị hại và lời khai của người làm chứng, phù hợp với kết quả giám định pháp y và phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ cơ sở pháp lý để kết luận: Khoảng 22 giờ 30 phút, ngày 20/01/2023 tại cổng nhà ông Lường Văn T ở thôn X, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Sau khi xảy ra xô sát giữa Ma Văn B với anh Nguyễn Văn N tại sân nhà ông T, sau khi B ra đứng ngoài đường thì anh N lấy gậy gỗ đuổi đánh B, B dùng dao có sẵn trong người đánh trả lại gây thương tích ở mặt, trong khi B và anh N đang đánh nhau thì bà H vào can ngăn thì bị dao của B chém trúng vào mặt, hậu quả anh N bị tỷ lệ thương tật 12% và bà H tỷ lệ thương tật 06%. Vì vậy, Toà án cấp sơ thẩm tuyên xử Ma Văn B, phạm tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 BLHS là có căn cứ, đúng với quy định của pháp luật.
[2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo của bị cáo, thấy rằng: Toà án cấp sơ thẩm đã xem xét đầy đủ đến các tình tiết giảm nhẹ cũng như nhân thân của bị cáo và áp dụng hình phạt 02 năm 03 tháng tù đối với bị cáo là phù hợp. Tuy nhiên, tại cấp phúc thẩm, bị cáo đã tự nguyện bồi thường phần trách nhiệm dân sự cho các bị hại và được các bị hại làm đơn xin bãi nại, xin hưởng án treo cho bị cáo, nên cần áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiêm hình sự quy định tại điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt, nhưng cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian thì mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt sống có ích cho gia đình và xã hội. Do đó cần chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo, sửa bản án hình sự sơ thẩm về hình phạt.
[3] Về án phí phúc thẩm: Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
[1] Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự.
Chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Ma Văn B, sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 39/2023/HSST ngày 24/8/2023 của Tòa án nhân dân huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk.
[2] Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự
Xử phạt: Bị cáo Ma Văn B 02 (Hai) năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt thi hành án.
[3] Về án phí: Bị cáo không phải chịu phí hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm, không có kháng cáo, kháng nghị, đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội cố ý gây thương tích số 233/2023/HS-PT
Số hiệu: | 233/2023/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đăk Lăk |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 20/11/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về