Bản án về tội cố ý gây thương tích số 23/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TRÀ VINH, TỈNH TRÀ VINH

BẢN ÁN 23/2023/HS-ST NGÀY 06/06/2023 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 06 tháng 6 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Trà Vinh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 22/2023/TLST-HS ngày 09 tháng 5 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 26/2023/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 5 năm 2023 và Thông báo dời ngày xét xử số: 07/2023/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 5 năm 2023 đối với các bị cáo:

1/ Lâm Thanh H, sinh ngày 08 tháng 4 năm 1993, tại tỉnh T. Nơi thường trú: ấp S, xã L, thành phố T, tỉnh T; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: K; tôn giáo: Phật; quốc tịch Việt Nam; giới tính: Nam; con ông Lâm Văn D, sinh năm 1967 và bà Liêu Ngọc L, sinh năm 1963; bị cáo có vợ tên Nguyễn Thị Ngọc T, sinh năm 1994 (đã ly hôn); con có 01 người sinh năm 2016; tiền án: không; tiền sự: Ngày 21/8/2018 bị Phòng Cảnh sát hình sự Công an tỉnh xử phạt số tiền 1.500.000 đồng (một triệu năm trăm nghìn đồng) về hành vi đánh bạc (Đã chấp hành xong); bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 11/4/2023 đến nay bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2/ Lương Như N, sinh ngày 28/9/2004, tại tỉnh T. Nơi thường trú: khóm Z phường X, thành phố T, tỉnh Trà Vinh; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch Việt Nam; giới tính: Nam; con ông Lương Ngọc Q, sinh năm 1978 và bà Trần Thanh K, sinh năm 1977; tiền án: không; tiền sự: Vào ngày 15/10/2021 bị Công an thành phố Trà Vinh xử phạt 500.000 đồng (năm trăm nghìn đồng) về hành vi đánh nhau; Ngày 27/10/2022 bị Ủy ban nhân dân thành phố Trà Vinh xử phạt 10.750.000 đồng (mười triệu, bảy trăm năm mươi nghìn đồng) về hành vi gây thương tích và sử dụng trái phép công cụ hỗ trợ (Cả 02 lần đều chưa chấp hành). Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 11/4/2023 đến nay; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Bị hại:

Võ Hoàng P, sinh ngày 07/12/ 1990 (vắng mặt) (có đơn xin xét xử vắng mặt). Nơi cư trú: Khóm A, phường S, thành phố T, tỉnh T.

Người làm chứng:

1/ Nguyễn Quốc D, sinh năm 1994 (vắng mặt) (có đơn xin xét xử vắng mặt). Nơi cư trú: Số 47A, khóm S, phường 6, thành phố T, tỉnh T.

2/ Huỳnh Tấn P, sinh năm 1985 (vắng mặt) (có đơn xin xét xử vắng mặt). Nơi cư trú: Số 725, khóm Q, phường W, thành phố T, tỉnh T.

3/ Hà Minh Q, sinh năm 1982 (vắng mặt).

Nơi cư trú: Số 134B, khóm E, phường E, thành phố T, tỉnh T.

4/ Lâm Hoàng M, sinh năm 1993 (có mặt).

Nơi cư trú: Số 3, khóm R, phường T, thành phố T, tỉnh T.

5/ Mai Văn T, sinh năm 1982 (vắng mặt).

Nơi cư trú: khóm A, phường S, thành phố T, tỉnh T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 22 giờ 40 phút, ngày 06/01/2023, Lâm Hoàn M, sinh ngày 01/01/1993, nơi thường trú tại số 03, khóm Z, phường X, thành phố T, tỉnh T đi ngang qua quán Ốc Tí Tí, địa chỉ khóm C, phường V, thành phố T, tỉnh T do anh Nguyễn Quốc D, sinh ngày 05/01/1994, nơi thường trú tại số 47A, khóm S, phường D, thành phố T, tỉnh T làm chủ, thì nhìn thấy anh Võ Hoàng P, sinh ngày 07/12/1990, nơi thường trú tại khóm E, phường S, thành phố T, tỉnh T đang ngồi uống bia. Do trước đó P có nợ M số tiền 100.000.000 đồng (một trăm triệu đồng) và nợ bị cáo Lâm Thanh H, số tiền 5.000.000 đồng (năm triệu đồng) cùng với lãi suất 3%/tháng nhưng đã hơn 01 năm qua, P cố tình trốn tránh và không thực hiện nghĩa vụ trả nợ nên M liền điện thoại cho bị cáo H đến để cùng đòi nợ. Nhận được điện thoại của M bị cáo H cùng bị cáo Lương Như Ng, điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại Exciter, màu đỏ, biển số 84B2-095.95 đến quán Ốc Tí Tí với mục đích đòi nợ. Khi đến nơi, bị cáo N dừng xe cặp hông phải của quán và trước siêu thị Vinatex cũ, Bị cáo N ở bên ngoài trông chừng xe, còn bị cáo H một mình vào bên trong quán để gọi P ra nói chuyện, còn M cũng vào quán nhưng ngồi vào một bàn trống chưa có khách của quán để quan sát. Bị cáo H vào trong quán gặp P và hỏi về khoản nợ mà P đã thiếu thì P trả lời không có tiền để trả, khi nào có trả sau, do đôi bên có lời qua tiếng lại lớn tiếng nên M và N cũng đến cạnh bên để xem. Nhận thấy P không có thiện chí muốn trả tiền và có thái độ không nghiêm túc với mình nên bị cáo H và bị cáo N rất tức giận và nảy sinh ý định đánh gây thương tích cho P.

Bị cáo H liền dùng tay phải đánh P 01 cái nhưng P đỡ được, tiếp tục bị cáo H dùng hai tay ghì cổ của P xuống định đánh nhưng bị P dùng tay đẩy ra và quay người lại định bỏ chạy. Thấy vậy, bị cáo N xông tới dùng tay trái nắm lấy phía sau cổ áo của P với mục đích không cho P chạy thoát, lúc này bị cáo N đứng cùng chiều với P và dùng tay phải đấm mạnh vào vùng mặt của P 03 (ba) cái theo hướng từ phải sang trái khiến P choáng váng, mất phương hướng không chạy được. Lúc này, bị cáo N tiếp tục đứng đối diện, dùng tay trái nắm lấy cổ áo phía trước của P, đồng thời dùng tay phải và chân phải liên tục đấm đá nhiều cái vào người của P. Cùng lúc này, bị cáo H liền lấy ly thủy tinh, loại ly dùng để uống bia, có quai cầm để trên bàn trong quán Tí Tí cách đó chừng 05m để đánh gây thương tích cho P. Thấy vậy, M liền tiến đến can ngăn nhưng không được, riêng bị cáo N vẫn tiếp tục nắm cổ áo phía trước của P khiến P khom người xuống, bị cáo H tiến đến đứng phía sau, cách chỗ P đứng khoảng 0,5m, tay phải cầm cái ly đánh vào vùng gò má phải của P 01 (một) cái theo chiều từ phải sang trái khiến P bị gãy xương hàm – gò má phải, bị cáo H tiếp tục cầm cái ly bằng tay phải đánh vào vùng đầu của P thêm 02 (hai) cái nữa theo chiều từ trên xuống làm cái ly bị bể khiến P bị thương tích và chảy máu ở vùng đỉnh đầu, cẳng tay phải và ngón cái bàn tay trái, thì được M can ngăn bị cáo H mới vứt bỏ cái ly này xuống nền gạch vỉa hè và đi ra bên ngoài đứng cách đó khoảng 02m. Bị cáo N tháo nón bảo hiểm, loại nón kết, màu xanh – đen đang đội trên đầu xuống, rồi dùng tay trái nắm lấy cổ áo phía sau của P tay phải cầm nón bảo hiểm đánh vào vùng đầu của P khoảng 05 cái theo chiều từ trên xuống nhưng P đỡ được khiến nón bảo hiểm bị bể. Thấy vậy, H tiếp tục lấy cái bàn nhựa, màu đỏ gần đó đánh vào vùng lưng của P 01 cái. Do nhìn thấy P bị chảy nhiều máu ở vùng đầu và P cũng đã bỏ chạy về hướng đường Điện Biên Phủ nên bị cáo H và bị cáo N bỏ về, còn P sau đó được đưa đến Bệnh viện đa khoa tỉnh Trà Vinh để cấp cứu điều trị vết thương.

Đến ngày 01 tháng 02 năm 2023, ông Võ Hoàng P làm đơn yêu cầu Công an thành phố Trà Vinh khởi tố vụ án hình sự.

Tại giấy chứng nhận thương tích số: 26/CNTT-BVĐKTV ngày 19/01/2023 của Bệnh viện đa khoa tỉnh Trà Vinh chứng nhận tình trạng thương tích lúc vào viện của ông Võ Hoàng P gồm có: Vết thương đỉnh đầu 6cm + 1/3 dưới cẳng tay (P) 4cm + ngón 1 tay (T) 4cm. Gãy hàm gò má (P).

Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số: 64/23/TgT, ngày 20/02/2023 của Trung tâm pháp y – Sở y tế tỉnh Trà Vinh kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định của Võ Hoàng P là 14% (mười bốn phần trăm) Trong đó, gãy xương hàm – gò má phải, hiện lành thương can tốt có tỷ lệ là 08% (tám phần trăm), sẹo trung bình 1/3 dưới mặt sau cẳng tay phải có tỷ lệ là 02% (hai phần trăm), sẹo nhỏ đuôi mày phải (sẹo mổ) có tỷ lệ là 03% (ba phần trăm), sẹo nhỏ vùng đỉnh chẩm có tỷ lệ 01% (một phần trăm) và sẹo nhỏ vùng đốt 1 ngón I bàn tay trái có tỷ lệ 01 (một phần trăm). Cơ chế hình thành các vết thương này cụ thể như sau: Do ngoại lực tác động trực tiếp. Vật gây ra thương tích gãy xương hàm – gò má phải là vật tày cứng, hướng từ phải sang trái. Vật gây ra thương tích vùng đỉnh chẩm, 1/3 dưới mặt sau cẳng tay phải và đốt 1 ngón I bàn tay trái là vật cứng có cạnh sắc, hướng từ trên xuống.

Đối với Lâm Hoàn M không tham gia gây thương tích cho Võ Hoàng P và cũng không có bàn bạc, xúi giục người khác gây thương tích cho Phong nên không xử lý.

Đối với hành vi cho Võ Hoàng P mượn tiền của Lâm Thanh H, Lâm Hoàn M với mức lãi suất theo thỏa thuận là 3%/tháng của khoản tiền vay (tức 36%/năm), chưa đến mức để xử lý hình sự về tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự.

Vật chứng vụ án: Không thu được cái ly thủy tinh do quá trình thu dọn hiện trường đã vứt bỏ. Hiện đang tạm giữ 01 (một) cái nón bảo hiểm màu xanh – đen, loại nón kết, phía sau và phía dưới nón có dòng chữ “Nón thể thao”, tình trạng đã bị bể, có nhiều vết trầy xước; 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại Exciter, màu đỏ, biển số 84B2-095.95.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại yêu cầu hai bị cáo bồi thường số tiền 150.000.000 đồng hai bị cáo đã khắc phục xong (mõi bị cáo 75.000.000 đồng) và bị hại không có yêu cầu gì khác.

Đối với Lâm Hoàn M không tham gia gây thương tích cho Võ Hoàng P và cũng không có bàn bạc, xúi giục người khác gây thương tích cho Phong nên không xử lý.

Đối với hành vi cho Võ Hoàng P mượn tiền của Lâm Thanh H, Lâm Hoàn M với mức lãi suất theo thỏa thuận là 3%/tháng của khoản tiền vay (tức 36%/năm), chưa đến mức để xử lý hình sự về tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự.

Tại Bản cáo trạng số: 21/CT-VKS-HS ngày 08/5/2023 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Trà Vinh đã truy tố Lâm Thanh H và Lương Như N về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Trà Vinh vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố bị cáo Lâm Thanh H và bị cáo Lương Như N phạm tội “Cố ý gây thương tích” như bản cáo trạng đã nêu. Sau khi phân tích, đánh giá các tình tiết, chứng cứ của vụ án và nhân thân của các bị cáo. Vị đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ: Điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b,s khoản 1,2 Điều 51; Điều 38; Điều 17; Điều 54 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Lâm Thanh H từ 01 năm 06 tháng đến 2 năm tù. Căn cứ: Điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b,s khoản 1,2 Điều 51; Điều 38; Điều 17; Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Lương Như N từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù. Đồng thời đề nghị xử lý tang vật chứng và buộc các bị cáo nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Lời nói sau cùng của các bị cáo trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án, các bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Trà Vinh, Điều tra viên. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Trà Vinh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay các bị cáo khai nhận: Vào khoảng 22 giờ 40 phút ngày 06/01/2023 Lâm Hoàng M phát hiện anh Võ Hoàng P đang uống bia tại quán Ốc Tí Tí, ở khóm 4, phường 3, thành phố Trà Vinh, nên điện thoại cho bị cáo H cùng bị cáo N đến mục đích để đòi tiền nợ, khi đến nơi thì H và anh P xãy ra cự cải dẫn đến đánh nhau. H dùng ly thủy tinh, N dùng nón bảo hiểm đánh nhiều cái vào người anh P dẫn đến gây thương tích cho anh P với tỷ lệ thương tật là 14%.

Lời khai nhận của các bị cáo phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại và tang vật chứng đã thu giữ cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Lâm Thanh H và bị cáo Lương Như N đã phạm vào tội “Cố ý gây thương tích” tội phạm và hình phạt được quy định tại Điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự như Viện kiểm sát nhân dân thành phố Trà Vinh đã truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.

Tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát và những người tham gia tố tụng không bổ sung tài liệu, đồ vật và không đề nghị triệu tập thêm người tham gia tố tụng. Xác định tư cách người tham gia tố tụng theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử là đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[3] Xét thấy Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Trà Vinh truy tố bị cáo Lâm Thanh Hiển và bị cáo Lương Như N về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự là phù hợp với quy định của pháp luật, không oan, không sai.

[4] Xét hành vi phạm tội của các bị cáo là nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội, các bị cáo đã trực tiếp xâm hại đến sức khỏe của người khác. Trong vụ án này mặc dù giữa bị cáo Lâm Thanh H và anh Võ Hoàng P có mâu thuẩn không lớn, nhưng bị cáo H đã dùng ly thủy tinh là hung khí nguy hiểm, bị cáo N dùng nón bảo hiểm đánh nhiều cái vào người anh P dẫn đến tổn hại thương tật là 14%. Hành vi của các bị cáo mang tính côn đồ, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự địa phương. Bản thân bị cáo N có nhân thân xấu đã bị Công an xử phạt vi phạm hành chính hai lần, hiện bị cáo chưa đóng phạt. Do đó, cần xử lý nghiêm đối với các bị cáo để nhằm răn đe phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, khi phạm tội các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; các bị cáo đã khắc phục cho bị hại tổng số tiền 150.000.000 đồng (một trăm năm mươi triệu đồng); Bị hại có làm đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo; bị hại cũng có lỗi. Nghĩ nên xem đây là những tình tiết giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo theo đề nghị của Viện kiểm sát là có cơ sở.

Đối với người làm chứng: Anh Nguyễn Quốc D, anh Huỳnh Tấn P, anh Hà Minh Q, anh Lâm Hoàn M, anh Mai Văn T có lời khai trình bày phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại anh Võ Hoàng P không có yêu cầu, Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

[6] Về vật chứng: 01 cái ly bằng thủy tinh, loại có quay cầm, chiều cao 12cm, đường kính miệng ly 7,5cm, đường kính đáy ly 06cm; 01 cái nón bảo hiểm màu xanh-đen, loại nón kết, phía sau và phía dưới nón có dòng chữ “Nón thể thao” đtình trạng đã bị bể, có nhiều vết trầy xước; 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại Exciter màu đỏ, biển số 84B2- 095.95, đã qua sử dụng có nhiều vết trầy xước. Nghĩ nên tịch thu tiêu hủy và trả lại cho bị cáo.

[7] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

[8] Về quyền kháng cáo: Các bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lâm Thanh H và bị cáo Lương Như N phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Căn cứ: Điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b,s khoản 1,2 Điều 51; Điều 38; Điều 17; Điều 54 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Lâm Thanh H 01 (một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 11/4/2023.

Căn cứ: Điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b,s khoản 1,2 Điều 51; Điều 38; Điều 17 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Lương Như N02 (hai) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 11/4/2023.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại anh Võ Hoàng P không có yêu cầu, Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

Căn cứ: Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy: 01 cái ly bằng thủy tinh, loại có quay cầm, chiều cao 12cm, đường kính miệng ly 7,5cm, đường kính đáy ly 06cm; 01 nón bảo hiểm màu xanh-đen, loại nón kết, phía sau và phía dưới nón có dòng chữ “Nón thể thao”, tình trạng đã bị bể, có nhiều vết trầy xước. Trả lại cho bị cáo Lâm Thanh H 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại Exciter màu đỏ, biển số 84B2-059.95.

Căn cứ: Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Buộc mỗi bị cáo nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án sơ thẩm xử công khai, báo cho các bị cáo biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Riêng người bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

220
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 23/2023/HS-ST

Số hiệu:23/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Trà Vinh - Trà Vinh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:06/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về