TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 216/2020/HS-ST NGÀY 28/07/2020 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 28 tháng 7 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 191/2020/TLST-HS ngày 26 tháng 6 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 204/2020/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 7 năm 2020 đối với bị cáo:
Nguyễn Văn L, sinh năm 1993 tại tỉnh Quảng Bình; nơi cư trú: Thôn 5, xã X, huyện B, tỉnh Quảng Bình; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hóa: 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn L (đã chết) và bà Mai Thị H; bị cáo có vợ là Phạm Thị Thu H và 02 người con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 05/11/2019.
Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
Bị hại: Ông Đậu Ngọc B, sinh năm 1992, nơi cư trú: Thôn 6, xã T, huyện N, tỉnh Thanh Hóa. Có mặt
Những người tham gia tố tụng khác:
Người làm chứng:
Bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1984. Vắng mặt
Ông Đậu Ngọc G, sinh năm 1987. Có mặt
Ông Nguyễn Văn L1, sinh năm 2000. Có mặt
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyễn Văn L và ông Đậu Ngọc B cùng tạm trú tại cơ sở trọ số 3C/50B, khu phố Bình Đức 2, phường Bình Hòa, thị xã Thuận An (nay là thành phố Thuận An), tỉnh Bình Dương.
Vào ngày 24/08/2019, giữa L và B có xảy ra mâu thuẫn do B có dùng tay đấm một người bạn của L (chưa rõ nhân thân, địa chỉ) và được mọi người can ngăn. Đến ngày 25/08/2019, bà Nguyễn Thị N là người quen của B, có hẹn B và L gặp nhau tại cơ sở trọ để hòa giải. Trong lúc nói chuyện thì B bị một số thanh niên (chưa rõ nhân thân, địa chỉ) là bạn của Nguyễn Văn L1 là em trai của L dùng tay đánh nhưng được mọi người can ngăn nên B bỏ về phòng trọ. Sau đó, vì sợ nhóm của L tiếp tục chặn đánh nên B gọi điện thoại cho anh trai là Đậu Ngọc G đến giúp chuyển đồ sang cơ sở trọ khác. Khi thấy ông G sang phòng trọ của B, Lam nghĩ B gọi người đến đánh mình liền nhặt 01 đoạn gỗ dài khoảng 01 m và lấy 01 con dao tự chế (mã tấu) màu đen, dài khoảng 80 cm có sẵn tại phòng trọ mang ra để cạnh thùng rác trước cơ sở trọ và đi đến phòng trọ của B để nói chuyện. Do bực tức vì trước đó bị nhóm bạn của L đánh, B liền dùng tay đánh 01 cái vào mặt L. L1 đi theo phía sau, thấy L bị đánh thì L1 cầm đoạn gỗ mà L để trước cơ sở trọ, đánh vào tay ông G. Lúc này, L liền quay lại lấy con dao tự chế đã chuẩn bị, chém một nhát theo hướng từ trên xuống dưới vào người B, B đưa tay trái lên đỡ và bỏ chạy. L tiếp tục đuổi theo đến trước cơ sở trọ, thì B té ngã, L tiếp tục chém nhiều nhát trúng vào vùng tay trái, đầu gối và chân của B. Thấy vậy, L1 chạy đến ôm L lại can ngăn không cho L chém B. L bỏ đi, còn B được đưa đến Bệnh viện chấn thương chỉnh hình cấp cứu, đến ngày 03/09/2019 thì xuất viện. Sau khi sự việc xảy ra, L bỏ trốn khỏi địa phương. Đến ngày 22/10/2019, Nguyễn Văn L đến Công an thị xã Thuận An (nay là thành phố Thuận An) đầu thú.
Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 472/2019/GĐPY ngày 22/10/2019 của Trung tâm pháp y – Sở Y tế tỉnh Bình Dương kết luận: Vết thương mặt trước cổ tay trái 12,5 x 0,2 cm, đứt gần lìa cổ tay, đứt bó mạch thần kinh trụ, đứt bó mạch thần kinh quay, gãy 1/3 dưới xương trụ trái, đứt gân gấp nông sâu các ngón 1,2,3,4,5 đã phẫu thuật khâu nối, di chứng tổn thương nhánh thần kinh trụ, nhánh thần kinh quay, hạn chế gấp cổ tay trái mức độ nhiều; vết thương gối phải 3,5x0,2 cm, vết thương ngón I bàn chân trái 1x0,1 cm. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên cho ông Đậu Ngọc B là 35%.
Cáo trạng số 210/CT-VKS-TA ngày 26/6/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn L về tội Cố ý gây thương tích theo quy định tại điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ quyền công tố vẫn giữ nguyên quyết định như bản cáo trạng đã truy tố và xác định: Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự; về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có; về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo đã bồi thường thiệt hại; bị cáo ra đầu thú; bị cáo có cha là người có công với Nhà nước.
Kiểm sát viên đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Văn L mức án từ 05 năm 06 tháng đến 06 năm tù.
Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận sự thỏa thuận của bị cáo và bị hại tại phiên tòa.
Về xử lý vật chứng: Không yêu cầu xem xét.
Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội giống nội dung Viện kiểm sát truy tố. Bị cáo đã ăn năn hối cải nên xin được giảm nhẹ hình phạt để bị cáo có cơ hội làm lại cuộc đời. Trước đây bị cáo đã bồi thường cho bị hại 15.000.000 đồng, nay bị cáo đồng ý bồi thường cho bị hại thêm số tiền 85.000.000 đồng.
Bị hại Đậu Ngọc B trình bày nội dung sự việc như bản cáo trạng đã truy tố, sau khi sự việc xảy ra ông B được đưa đi cấp cứu, điều trị thương tích tại bệnh viện Chấn thương chỉnh hình thì bị cáo có bồi thường 15.000.000 đồng, nay yêu cầu bị cáo bồi thường thêm số tiền 85.000.000 đồng.
Người làm chứng Nguyễn Văn L1 trình bày: Ông L1 là em bị cáo L. Khi bị cáo chém bị hại thì ông L1 có chứng kiến và can ngăn không cho bị cáo chém bị hại. Trước đó ông L1 có dùng khúc cây bằng gỗ đánh ông Gi vào tay vì tưởng G qua đánh L1 nhưng không gây thương tích cho ông G. Ông L1 không bàn bạc với bị cáo để đánh bị hại và cũng không gây thương tích cho bị hại.
Người làm chứng Đậu Ngọc G trình bày: Ông G là anh ruột bị hại B, trước khi xảy ra sự việc thì ông G có nghe mâu thuẫn giữa B và L nên đến nhà trọ của B phụ B dọn phòng thì có bị L1 dung cây đánh vào tay nhưng không gây thương tích và có thấy L chém B nên đưa B đi cấp cứu.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp, đúng quy định.
[2] Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn L đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai của bị cáo phù hợp với các tình tiết như nội dung bản cáo trạng đã truy tố, phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án về thời gian, địa điểm, quá trình thực hiện hành vi phạm tội.
Hội đồng xét xử có đủ cơ sở nhận định: Vào 20 giờ 00 phút ngày 25/8/2019, tại địa chỉ 30C/50F khu phố Bình Đức 2, phường Bình Hòa, thị xã Thuận An (nay là thành phố Thuận An), tỉnh Bình Dương, bị cáo Nguyễn Văn L đã thực hiện hành vi dùng con dao tự chế (mã tấu) là hung khí nguy hiểm gây thương tích cho bị hại Đậu Ngọc B. Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 472/2019/GĐPY ngày 22/10/2019 của Trung tâm pháp y – Sở Y tế tỉnh Bình Dương kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên cho ông Đậu Ngọc B là 35%. Hành vi của bị cáo đã thực hiện đủ yếu tố cấu thành tội Cố ý gây thương tích, tội phạm và hình phạt quy định điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật Hình sự.
Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An truy tố bị cáo về tội Cố ý gây thương tích theo điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Mức đề nghị hình phạt của Kiểm sát viên đối với bị cáo là phù hợp với hành vi của bị cáo đã thực hiện.
[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm về sức khỏe của người khác một cách trái pháp luật, làm ảnh hưởng an ninh trật tự xã hội tại địa phương. Bị cáo nhận thức rõ hành vi dùng dao tự chế (mã tấu) là hung khí nguy hiểm gây thương tích cho bị hại là vi phạm pháp luật và sẽ bị trừng trị, nhưng vì xích mích mâu thuẫn do bị hại đánh bị cáo nên bị cáo cố ý phạm tội, sau khi phạm tội bị cáo đã ra đầu thú, vì vậy cần xét xử và áp dụng mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ, hậu quả phạm tội đã thực hiện có xem xét đến tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn và nhân thân của bị cáo.
[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.
[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội bị cáo đã bồi thường thiệt hại; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo ra đầu thú; bị cáo có cha được tặng thưởng Huân chương chiến sĩ vẻ vang; việc phạm tội do một phần lỗi của bị hại nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã bồi thường thiệt hại 15.000.000 đồng cho bị hại. Tại phiên tòa, bị cáo và bị hại thống nhất thỏa thuận bị cáo bồi thường thêm cho bị hại số tiền 85.000.000 đồng nên Hội đồng xét xử ghi nhận.
[7] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 con dao tự chế (mã tấu) màu đen, dài khoảng 80 cm, sau khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo L đã vứt bỏ hiện không thu hồi được nên không đặt ra xem xét.
[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Đối với hành vi của Nguyễn Văn L1 có cầm đoạn gỗ mà L để trước cơ sở trọ, đánh vào tay ông Đậu Ngọc G nhưng không gây thương tích. L1 cũng không bàn bạc với L trong việc gây thương tích cho bị hại, khi bị cáo chém bị hại thì L1 can ngăn nên Cơ quan điều tra không xử lý hành vi của Nguyễn Văn L1 là phù hợp với quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
Căn cứ vào:
QUYẾT ĐỊNH
- Điểm c khoản 3 Điều 134; các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).
- Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự;
- Điều 590 Bộ luật Dân sự;
- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
1. Về trách nhiệm hình sự: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn L phạm tội Cố ý gây thương tích.
Xử phạt Nguyễn Văn L 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 05/11/2019.
2. Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo Nguyễn Văn L phải bồi thường cho bị hại Đậu Ngọc B số tiền 85.000.000 đồng (tám lăm triệu đồng).
Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án nếu người phải thi hành án không thanh toán số tiền trên cho người được thi hành án thì hàng tháng người phải thi hành án thì còn phải trả cho người được thi hành án số tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với thời hạn và số tiền chậm trả.
3. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn L phải chịu 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 4.250.000 đồng (bốn triệu hai trăm năm mươi ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.\.
Bản án về tội cố ý gây thương tích số 216/2020/HS-ST
Số hiệu: | 216/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/07/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về