TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN C, TỈNH G
BẢN ÁN 21/2021/HS-ST NGÀY 28/10/2021 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 28 tháng10 năm 2021 tại Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh G xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 19/2021/TLST-HS ngày 07 tháng 9 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 22/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 9 năm 2021 đối với bị cáo:
Đoàn Ngọc V(tên gọi khác: Út), sinh ngày 02/02/2000 tại huyện C, tỉnh G.
Nơi cư trú: Thôn Lũh N , xã IaH , huyện C, tỉnh G.
Nghề nghiệp: làm nông; Trình độ học vấn: 07/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đoàn Ngọc C(đã chết) và bà Trần Thị Thu Th, sinh năm 1975.
Nhân thân:
Tại Bản án số 30/2017/HS-ST ngày 26/9/2017, Bị Tòa án nhân dân huyện C xử phạt 03 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Ngày 28/11/2017, chấp hành xong hình phạt tù.
Tại Bản án số 09/2018/HS-ST ngày 04/4/2018, bị Tòa án nhân dân huyện C xử phạt 12 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Ngày 14/5/2019, chấp hành xong hình phạt tù.
Tại Bản án số 13/2018/HS-ST ngày 03/5/2018, bị Tòa án nhân dân huyện C xử phạt 07 tháng tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”. Ngày 18/02/2021, chấp hành xong hình phạt tù.
- Ngày 19/12/2019, bị Công an huyện C xử phạt vi phạm hành chính số tiền 2.500.000đ về hành vi “Xâm hại sức khỏe của người khác”. Bị cáo đã chấp hành nộp phạt.
- Ngày 12/6/2021, bị Công an huyện C xử phạt vi phạm hành chính số tiền 750.000đ về hành vi “Đánh nhau”.
Tiền án: Không; Tiền sự: 02.
- Ngày 21/6/2017, bị Công an huyện C xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.750.000đ về hành vi “Cố ý làm hư hỏng tài sản”. Hiện bị cáo chưa chấp hành nộp phạt.
- Ngày 30/03/2017, bị Công an huyện C xử phạt vi phạm hành chính số tiền 375.000đ về hành vi “Đánh nhau”. Hiện bị cáo chưa chấp hành nộp phạt.
Bị cáo bị bắt, tạm giam ngày 12/6/2021. Có mặt
- Bị hại: Đặng Việt H, sinh ngày 30/5/2006 Địa chỉ: Thôn Tao Chor, xã IaHrú, huyện C, tỉnh G. Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.
- Người đại diện hợp pháp cho bị hại: Ông Đặng Văn N , sinh năm 1970 và chị Trần Thị H, sinh năm 1974 (cha mẹ đẻ của Đặng Việt H), Địa chỉ: Thôn T, xã I, huyện C, tỉnh G. Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt, nội dung đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi tố vụ án hình sự và yêu cầu bồi thường thiệt hại.
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
1. Anh Trường Văn L sinh năm 1973, Trú tại: Thôn Phú Bình, xã IaLe, huyện C, tỉnh G. Có mặt 2. Anh Nguyễn Tấn V (Trắng), sinh năm 1983, Trú tại: Thôn Hòa Hiệp, thị trấn Nhơn Hòa, huyện C, tỉnh G. Có mặt - Người tham gia tố tụng khác:
+ Người làm chứng:
1. Đinh Văn D , sinh năm 2006; Người đại diện hợp pháp: Ông Đinh Văn T (cha đẻ của Dũng);
Địa chỉ: Thôn T, xã I, huyện C, tỉnh G. Vắng mặt
2. Phạm Quốc T , sinh năm 2006; Người đại diện hợp pháp: Chị Lê Thị Thanh H (mẹ đẻ của Toàn) Địa chỉ: Thôn P, xã I, huyện C, tỉnh G. Vắng mặt
3. Nguyễn Trương K , sinh năm 2007; Người đại diện hợp pháp: Chị Trương Thị Phi N (mẹ đẻ của K ) Địa chỉ: Thôn Phú Quang, xã IaHrú, huyện C, tỉnh G. Vắng mặt
4. Phan Thành N , sinh năm 2007; Người đại diện hợp pháp: Anh Phan Thanh Tr (cha đẻ của N) Địa chỉ: Thôn Phú Quang, xã IaHrú, huyện C, tỉnh G. Có mặt
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào buổi chiều tối một ngày trong tháng 4/2021, khi đang ngồi nhậu với Trương Văn L , Lê Trần Đình N tại quán “Cá kèo” thuộc thôn Hoà Bình, thị trấn Nhơn Hoà, huyện C, tỉnh G thì Nguyễn Tấn V (tên gọi khác là T ) gọi điện cho Đoàn Ngọc V đến nhậu cùng. Trong quá trình ngồi nhậu thì anh có tâm sự về công việc làm ăn của gia đình mình (gia đình anh L làm nghề buôn bán bún tươi tại xã Ia Le) có chút khó khăn vì người dân đi làm ăn xa, ngoài ra anh L còn kể chuyện có người phụ nữ tên H ở xã Ia Hrú đi vào xã Ia Le bán bún phá giá (bán giá thấp hơn) gây khó khăn cho công việc buôn bán của gia đình anh L . Sau khi nghe anh L kể chuyện thì V có nói quen biết với gia đình chị Trần Thị H làm nghề bán bún tươi. V nói để Vnói chuyện với chị H giúp, thì anh L và Vũ nhờ V gặp chị H nói chuyện giúp anh L chị H không bán bún “phá giá” nữa. Tiếp đó thì có Huỳnh Trung đi đến và nhậu cùng. Sau khi ngồi nhậu và nói chuyện một lúc thì V đi về trước. Đến tối ngày hôm sau, V đi đến nhà gặp chị Trần Thị H. Tại đây, V và chị H nói chuyện với nhau và V đề nghị chị H vào xã Ia Le bán bún không được “phá giá” nữa rồi V đi về. Sau đó, V nghe nói chị H vẫn bán bún ở khu vực xã Ia Le nên tối ngày 07/5/2021, V đi đến nhà chị H để tiếp tục nói chuyện thì hai bên xảy ra mâu thuẫn, cãi vã, sau đó V bỏ về. Vì còn bực tức chuyện cãi nhau với chị H , nên vào sáng ngày 08/5/2021 biết con trai của chị H là cháu Đặng Việt H đang học ở trường THCS Phan B C thuộc Plei Thông B, xã Ia Hrú, huyện C, tỉnh G nên Vđi đến khu vực trường THCS Phan B C tìm đánh cháu Ho để hù doạ trả thù chị H . Đến khoảng 09 giờ cùng ngày, cháu Ho đi từ trong trường ra quán nước trước cổng trường thì Vliền đi tới và dùng tay đánh nhiều cái vào vùng mặt và đầu của cháu Ho rồi V bỏ đi. Hậu quả: cháu Đặng Việt H bị sưng bầm, đau nhức ở vùng đầu, mặt phải đi khám và điều trị tại Trung tâm y tế Cao su Chư Sê.
Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 88 ngày 13/5/2021 của Trung tâm pháp y tỉnh G kết luận:
1. Dấu hiệu chính qua giám định:
- Tại thời điểm giám định vùng chẩm không còn dấu vết thương tích, sưng bầm. Sờ nắn có một khối sưng nề dưới da ấn còn đau tức kích thước #(1x1)cm.
- Chấn động não điều trị ổn định.
- Tụ máu dưới da đầu và tổn thương xoang chũm, đá bên trái: Theo Thông tư 22/2019 không có mục phần trăm tổn thương nên không có cơ sở kết luận.
2. Tỉ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định là 4% (Bốn phần trăm). Áp dụng phương pháp cộng theo Thông tư 22/2019/TT-BYT.
Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 114 ngày 02/6/2021 của Trung tâm pháp y tỉnh G kết luận:
- Cơ chế: Do sự tác động trực tiếp của ngoại lực.
- Vật gây thương tích: Phù hợp với vật tày (định hướng do sự tác động của tay chân).
Ngày 02/6/2021, cháu Đặng Việt H và người đại diện hợp pháp của cháu Ho là chị Trần Thị H đã có Đơn yêu cầu khởi tố vụ án hình sự.
Về vật chứng vụ án: Không.
Về trách nhiệm dân sự: Cháu Đặng Việt H và người đại diện hợp pháp của cháu Ho là chị Trần Thị H yêu cầu Đoàn Ngọc V bồi thường tiền viện phí, chi phí đi lại, thuốc men với số tiền 9.000.000đ. Hiện Đoàn Ngọc V chưa bồi thường.
Tại bản cáo trạng số: 19/CT-VKS ngày 06 tháng 9 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện C, tỉnh G đã truy tố bị cáo Đoàn Ngọc V (Út) về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm c,i khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C, tỉnh G giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Đoàn Ngọc V (Út) về tội “Cố ý gây thương tích”, Đề nghị Hội đồng xét xử:
Áp dụng điểm c, i khoản 1 Điều 134; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Đoàn Ngọc Vtừ 12 tháng đến 15 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam.
Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo bồi thường cho bị hại số tiền 9.000.000 đồng.
Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 BLTTHS; điểm a và c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của UBTVQH, buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.
Bị cáo nói L nói sau cùng: Bị cáo rất ăn năn hối lỗi về việc làm vi phạm pháp luật của mình; đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện C, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện C, tỉnh G, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa L khai của bị cáo phù hợp với những chứng cứ, tài liệu thu thập được có tại hồ sơ vụ án cũng như L trình bày của những người tham gia tố tụng khác có mặt tại phiên tòa.
Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận:
Vào khoảng 09 giờ ngày 08/5/2021, Đoàn Ngọc V đi đến khu vực phía trước cổng trường THCS Phan B C thuộc Plei Thông B, xã Ia Hrú, huyện C, tỉnh G, khi vừa thấy cháu Đặng Việt H đi từ trong trường ra quán nước trước cổng trường thì V liền đi tới và dùng tay đánh nhiều cái vào vùng mặt và đầu của cháu Hoàng, gây thương tích cho cháu Ho với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 4%. Khi V thực hiện hành vi đối với cháu Ho thì cháu Ho mới 14 tuổi 11 tháng 08 ngày, là người dưới 16 tuổi.
Xét nguyên nhân dẫn đến hành vi đánh gây thương tích cháu Ho của V là xuất phát từ việc trước đó V tự nguyện giúp anh Trương Văn L để đi nói chuyện với chị Trần Thị H về việc chị H không được bán bún “phá giá”. Sau khi V gặp nói chuyện với chị H thì có xảy ra mâu thuẫn, bực tức nên V đã nảy sinh ý định đánh cháu Ho (là con của chị H ) để hù doạ, trả thù chị H . Bị cáo đã ngang nhiên, vô cớ đánh người khác mà không phải do nguyên nhân xuất phát từ phía bị hại. Khi vừa mới gặp cháu Ho trước khu vực cổng trường thì Vliền xông tới dùng tay đánh liên tiếp vào vùng đầu và mặt của cháu Hoàng. Bản thân bị cáo có nhân thân xấu, nhiều lần bị Toà án xét xử về các tội Cố ý gây thương tích, Cưỡng đoạt tài sản; nhiều lần bị xử phạt vi phạm hành chính về các hành vi Đánh nhau, Xâm hại sức khoẻ của người khác, Cố ý làm hư hỏng tài sản, là đối tượng nghiện ma túy, nhiều lần được chính quyền địa phương giáo dục, răn đe nhưng không chịu sửa chữa. Sau khi đánh gây thương tích cho cháu Hoàng, bản thân V không ăn năn, hối lỗi mà trái lại V còn có hành vi đăng lên mạng xã hội Facebook để đe doạ gia đình cháu Hoàng. Hành vi của Đoàn Ngọc V thể hiện sự coi thường pháp luật, có tính chất côn đồ. Cháu Ho và người đại diện hợp pháp của cháu Ho là chị Trần Thị H đã có đơn yêu cầu khởi tố vụ án hình sự. Do đó Viện kiểm sát nhân dân huyện C, tỉnh G đã truy tố bị cáo Đoàn Ngọc V(Út) về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm c, i khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội.
[3] Về tính chất, vai trò, nhân thân; các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự:
Hội đồng xét xử xét thấy, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những trực tiếp xâm hại đến sức khỏe của người bị hại một cách trái pháp luật mà còn trực tiếp xâm hại đến trật tự, trị an ở địa phương. Hiện nay, loại tội phạm xâm hại trực tiếp đến sức khỏe người khác có chiều hướng gia tăng, đã gây dư luận xấu, bất bình trong nội bộ quần chúng nhân dân. Bị cáo biết rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật, trái đạo đức xã hội nhưng vẫn cố ý thực hiện.
Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu, nhiều lần bị kết án mặc dù đã được xóa án tích, bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này, đã được giáo dục, học tập tại trại cải tạo nhưng lại không lấy đó làm bài học để sửa chữa lỗi lầm của bản thân mà lại chứng nào tật ấy, tiếp tục phạm tội. Do vậy cần xử phạt tù bị cáo với mức án nghiêm khắc mới có tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.
Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Hội đồng xét xử xét thấy tại phiên toà cũng như quá trình điều tra vụ án, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo; Do đó cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự khi lượng hình đối với bị cáo.
Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không.
[4] Đối với việc Đoàn Ngọc V khai được nhận số tiền 5.000.000đ từ anh Trương Văn L thông qua Nguyễn Tấn V để V trốn đi một thời gian sau khi đánh cháu Hoàng, Cơ quan điều tra đã tiến hành đối chất giữa anh L , anh Vũ với Vinh, anh Vũ khẳng định không nhờ V đi đánh chị H hay bất cứ ai khác, cũng không biết trước việc V đi đánh con trai chị H . Bản thân anh L khai không có đưa tiền bạc hoặc tài sản gì cho Vũ. Bản thân V cũng không nhận tiền của anh L và đưa tiền cho bị cáo. Mặt khác, ngoài L khai của V, Cơ quan điều tra đã tiến hành làm việc với những người liên quan nhưng không có tài liệu, chứng cứ nào khác xác định việc anh V và L đưa tiền để nhờ hoặc thuê mướn V đi đe doạ chị H hay đánh con chị H là cháu Hoàng. Tại phiên tòa, bị cáo lại khai là sau khi đánh cháu Ho mới mượn tiền anh L thông qua anh V để bồi thường cho bị hại. Song anh V và anh L không thừa nhận lời khai trên của bị cáo. Lời khai của bị cáo là không thống nhất. Do đó, không có đủ cơ sở, căn cứ để xác định Trương Văn L và Nguyễn Tấn V đồng phạm với Đoàn Ngọc V về tội Cố ý gây thương tích xảy ra ngày 08/5/2021.
[5] Về vật chứng của vụ án: Không.
[6] Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa, bị cáo đồng ý bồi thường theo yêu cầu của bị hại; Bị cáo bồi thường cho cháu Đặng Việt H số tiền 9.000.000 đồng. Áp dụng Điều 584, Điều 585, Điều 586 và Điều 590 Bộ luật dân sự; Sự tự nguyện của bị cáo không trái pháp luật và đạo đức xã hội nên Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện này của bị cáo.
[7] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Đoàn Ngọc V(Út) phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
- Áp dụng điểm c, i khoản 1 Điều 134; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Đoàn Ngọc V (Út): 10 (Mười) tháng tù. Thời hạn chấp hành án hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt, tạm giam (ngày 12/6/2021).
2. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 584, Điều 585, Điều 586 và Điều 590 Bộ luật dân sự; Ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo Đoàn Ngọc V, bị cáo Đoàn Ngọc V bồi thường cho cháu Đặng Việt H số tiền 9.000.000 đồng (Chín triệu đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a, c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội. Buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 450.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm sung vào công quỹ nhà nước.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại điều 6, điều 7, 7b và điều 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án
4 . Về quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án , bị cáo có quyền kháng cáo bản án; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo phần bản án có liên quan trực tiếp đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình lên Tòa án nhân dân tỉnh G để yêu cầu xét xử phúc thẩm; Những người vắng mặt có quyền kháng cáo kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án./
Bản án về tội cố ý gây thương tích số 21/2021/HS-ST
Số hiệu: | 21/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Chư Păh - Gia Lai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/10/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về