TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH ĐỊNH
BẢN ÁN 203/2023/HS-PT NGÀY 11/12/2023 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 11 tháng 12 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 156/2023/HSPT ngày 02 tháng 10 năm 2023 đối với bị cáo Văn Công T do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 46/2023/HS-ST ngày 18 tháng 8 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định.
- Bị cáo có kháng cáo:
Văn Công T (tên gọi khác: Chờ), sinh ngày 06/01/1993 tại tỉnh Phú Yên; nơi cư trú: Thôn T, xã S, huyện S, tỉnh Phú Yên; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Văn Công H, sinh năm: 1967 và bà Lê Thị B, sinh năm: 1968; vợ: Đặng Thị Tiểu L, sinh năm: 1995; con: Có 01 con sinh năm 2019; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 24/12/2010, bị Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 10 năm tù về tội “Giết người”; ngày 14/4/2011, bị Toà án nhân dân huyện Sơn Hoà, tỉnh Phú Yên xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”; bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 11 năm 03 tháng tù; ngày 31/8/2015, bị cáo được đặc xá về sinh sống tại địa phương; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/02/2023 cho đến nay. Có mặt tại phiên tòa.
Ngoài ra, còn có các bị cáo Nguyễn Văn L1, Lê Thế L2 và Trần Kim S không có kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng nghị.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 16 giờ ngày 19/5/2020, Văn Công T, Nguyễn Văn L1, Trần Kim S, Lê Thế L2, Huỳnh Thanh P, Nguyễn Dương Trường T1 và Nguyễn Văn T2 cùng nhau đến quán H1 bê thui thuộc khu phố D, thị trấn B, huyện P để nhậu. Lúc này, trong quán có nhóm của Nguyễn Phúc H2, Phạm Văn T3, Nguyễn Bá V, Đặng Hiệp T4 và một số người bạn khác cũng đang ngồi nhậu sát bên. Do quen biết với H2 nên T qua bàn của H2 để mời bia và sau đó xảy ra mâu thuẫn với Phạm Văn T3. T, Phạm Văn T3 và V to tiếng, cãi nhau và xô xát với nhau. Thấy vậy, L1, S chạy qua cùng với T đánh Phạm Văn T3. V bị té ngã xuống nền nhà trong lúc xô xát và bị T dùng tay đánh nhiều cái vào vùng đầu, mặt, dùng chân đạp nhiều cái vào vùng ngực làm V nằm bất động. L1, S dùng tay, chân đánh, đấm nhiều cái vào người Phạm Văn T3. Đặng Hiệp T4 vào can ngăn thì xảy ra xô xát với S. Cùng lúc này, L2 sau khi ra ngoài vào thì xông vào đánh Phạm Văn T3 và bị T3 tung đạp té ngã. Phạm Văn T3 bỏ chạy ra đường bê tông phía sau quán thì bị L1 và L2 đuổi theo. L1 nhặt 01 viên gạch xây dựng (loại gạch 6 lỗ) ở gần đó đánh vào người Phạm Văn T3, sau đó tiếp tục dùng tay đánh nhiều cái vào Phạm Văn T3. Trong khi đó, S bị Đặng Hiệp T4 ôm giữ lại và cả hai giằng co té ngã. Sau khi đánh V xong, T cầm vỏ chai bia Tiger bị bể phần đáy trên nền nhà chạy ra chỗ L1 và L2 đang đánh Phạm Văn T3; T cầm vỏ chai đánh 2-3 cái vào tay trái của Phạm Văn T3 gây thương tích, chảy nhiều máu. Cùng lúc này, S thấy T cầm vỏ chai bia đánh Phạm Văn T3 nên S cũng cầm vỏ chai bia chạy lại, định đánh Phạm Văn T3 thì T nói “chạy đi” nên cả nhóm bỏ đi.
Hậu quả, V bị thương tích được đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện Đ. Phạm Văn T3 bị thương được đưa đi cấp cứu tại Trung tâm y tế huyện P, sau đó chuyển viện đến Bệnh viện đa khoa tỉnh B điều trị. Đặng Hiệp T4 bị xây xát nhẹ, tự điều trị, đã hồi phục và không có yêu cầu giám định thương tích, không yêu cầu điều tra, khởi tố đối với các bị cáo.
Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 200/2020/PY-TgT ngày 04/9/2020, Trung tâm pháp y tỉnh B đã kết luận tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại đối với Phạm Văn T3 là 12%.
Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 201/2020/PY-TgT ngày 08/9/2020, Trung tâm pháp y tỉnh B đã kết luận tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại đối với Nguyễn Bá V là 07%.
Các bị cáo đã bồi thường cho Phạm Văn T3 25.400.000 đồng; trong đó T bồi thường 7.400.000 đồng, L1, S và L2 mỗi bị cáo đã bồi thường 6.000.000 đồng. Nguyễn Bá V không yêu cầu bồi thường về dân sự.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 46/2023/HS-ST ngày 18/8/2023, Tòa án nhân dân huyện Phù Mỹ đã căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134, các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Văn Công T 30 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về phần hình phạt đối với các bị cáo Nguyễn Văn L1, Lê Thế L2 và Trần Kim S, phần án phí và quyền kháng cáo theo luật định.
Ngày 28/8/2023, bị cáo Văn Công T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Tại phiên toà, bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo trên.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Văn Công T, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo có trong hồ sơ vụ án và phù hợp với các chứng cứ khác nên có đủ cơ sở xác định:
Khoảng 16 giờ ngày 19/5/2020, khi đang nhậu tại quán H3 thuộc khu phố D, thị trấn B, huyện P thì xảy ra mâu thuẫn giữa Văn Công T với Phạm Văn T3; dẫn đến việc T cùng với Nguyễn Văn L1, Lê Thế L2, Trần Kim S dùng tay chân và hung khí nguy hiểm (vỏ chai bia và gạch 6 lỗ) đánh gây thương tích cho Phạm Văn T3, Nguyễn Bá V. Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 200/2020/PY-TgT ngày 04/9/2020, Trung tâm pháp y tỉnh B đã kết luận tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại đối với Phạm Văn T3 là 12%.
Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 201/2020/PY-TgT ngày 08/9/2020, Trung tâm pháp y tỉnh B đã kết luận tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại đối với Nguyễn Bá V là 07%.
Do đó, Bản án hình sự sơ thẩm số 46/2023/HS-ST ngày 18/8/2023 của Tòa án nhân dân huyện Phù Mỹ đã xét xử bị cáo Văn Công T về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự là phù hợp.
[2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Văn Công T, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng:
Hành vi của bị cáo đã xâm phạm sức khoẻ của người khác, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự địa phương.
Trong vụ án này, bị cáo là nguyên nhân xảy ra mâu thuẫn, xô xát giữa hai nhóm; hành vi của bị cáo có tính chất nguy hiểm hơn các bị cáo khác, vừa đánh gây thương tích cho V và vừa dùng vỏ chai bia gây thương tích cho Phạm Văn T3. Bị cáo có nhân thân xấu, đã từng bị xử phạt về tội “Giết người” và “Cố ý gây thương tích”. Bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là bị cáo đã tự nguyện bồi thường thiệt hại cho bị hại, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, khi phát hiện mình bị truy nã thì đã ra đầu thú quy định tại các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Căn cứ tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội và nhân thân bị cáo, Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo 30 tháng tù là phù hợp, có tác dụng răn đe và phòng ngừa chung.
Tại phiên toà, bị cáo bổ sung thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là gia đình bị cáo thuộc diện khó khăn nhưng không đưa ra được tài liệu, chứng cứ chứng minh và đồng thời cha mẹ bị cáo vẫn trong độ tuổi lao động nên việc bị cáo cho rằng bị cáo là lao động chính trong gia đình là không có cơ sở.
Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Văn Công T, giữ nguyên bản án sơ thẩm về phần hình phạt đối với bị cáo.
[3] Về án phí hình sự phúc thẩm: Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì bị cáo Văn Công T phải chịu 200.000 đồng.
[4] Trong vụ án này, tuy S và L2 không trực tiếp dùng hung khí đánh gây thương tích cho Phạm Văn T3 nhưng khi thấy đánh nhau, S và L2 không ngăn cản mà chủ động dùng tay đánh, đấm nhiều cái vào người Phạm Văn T3; khi thấy T cầm vỏ chai bia đánh T3, S cũng cầm vỏ chai bia chạy lại, định đánh T3 thì T nói “chạy đi” nên S mới dừng lại, bỏ đi. Toà án cấp sơ thẩm xác định bị cáo S có vai trò thứ yếu, chỉ dùng tay chân đánh Phạm Văn T3 là không phù hợp vì so với L2, bị cáo có vai trò tích cực hơn. Mặc dù bị cáo L2 có nhân thân xấu, chưa được xoá án tích nhưng căn cứ tính chất, mức độ phạm tội, Toà án cấp sơ thẩm đã xử phạt L2 18 tháng tù nhưng lại xử phạt bị cáo S 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo là không tương xứng, không đảm bảo tính răn đe và phòng ngừa chung.
Để giải quyết vụ án theo quy định, áp dụng mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo Trần Kim S, Hội đồng xét xử phúc thẩm kiến nghị Chánh án Toà án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xem xét, kháng nghị giám đốc thẩm đối với quyết định của bản án sơ thẩm về phần hình phạt của bị cáo S theo hướng tăng hình phạt đối với bị cáo và không cho bị cáo được hưởng án treo.
[5] Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[6] Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định đề nghị không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Văn Công T, giữ nguyên bản án sơ thẩm là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự;
Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134; các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự;
Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Văn Công T. Giữ nguyên bản án sơ thẩm.
2. Xử phạt bị cáo Văn Công T 30 (ba mươi) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”.
3. Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Văn Công T phải chịu 200.000 đồng.
4. Kiến nghị Chánh án Toà án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xem xét, kháng nghị giám đốc thẩm đối với quyết định của bản án sơ thẩm về phần hình phạt của bị cáo Trần Kim S theo hướng tăng hình phạt đối với bị cáo và không cho bị cáo được hưởng án treo.
5. Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
6. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội cố ý gây thương tích số 203/2023/HS-PT
Số hiệu: | 203/2023/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bình Định |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 11/12/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về