Bản án về tội cố ý gây thương tích số 193/2022/HS-PT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 193/2022/HS-PT NGÀY 29/08/2022 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 29 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đ, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 185/2022/TLPT-HS ngày 27 tháng 7 năm 2022, do có kháng cáo của bị cáo Y R La K, những người bị hại ông Y R P B, ông Y L Buôn D, ông Y D B đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 10/2022/HS-ST ngày 17 tháng 6 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Đ.

- Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: Y R La K (tên gọi khác: không); sinh ngày 28 tháng 5 năm 1996, tại tỉnh Đ. Nơi cư trú: Buôn E, xã E, huyện C, tỉnh Đ; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ học vấn: 03/12; Dân tộc: Ê Đê; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Tin lành; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Y K Buôn D, sinh năm 1965 và bà H B K, sinh năm 1968; bị cáo chưa có vợ và con; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 16/6/2021 cho đến nay, có mặt.

- Những người bị hại:

+ Ông Y R P B, sinh năm 1997, có mặt. Địa chỉ: Buôn E, xã E, huyện C, tỉnh Đ.

+ Ông Y L Buôn D, sinh năm 1960, có mặt.

Địa chỉ: Buôn E, xã E, huyện C, tỉnh Đ.

+ Ông Y D B, sinh năm 1987, có mặt.

Địa chỉ: Buôn E, xã E, huyện C, tỉnh Đ.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà H B K, sinh năm 1968, có mặt.

Địa chỉ: Buôn E, xã E, huyện C, tỉnh Đ

- Người phiên dịch cho bị cáo và bị hại: Bà H’M Niê, có mặt. Địa chỉ: 27A1 đường T, Phường E, thành phố B, tỉnh Đ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 11 giờ ngày 14/02/2021, Y D B ngồi uống rượu cùng với bố là ông Y L Buôn D, em trai là Y S Buôn Yă và em họ là Y R P B tại nhà ông Y L ở buôn E, xã E, huyện C. Đến khoảng 16 giờ 30 phút cùng ngày, Y S đi chơi ở nhà bạn, còn Y D cũng điều khiển xe mô tô đến nhà H N K - người yêu của Y D ở cùng buôn để giải quyết mâu thuẫn tình cảm. Trong lúc nói chuyện, giữa Y D với H N cãi nhau qua lại nên bác của H N là ông Y N1 K đuổi Y D về. Bực tức, Y D dùng tay đấm 01 cái trúng vào trán của ông Y N1 làm ông Y N1 ngã xuống nền nhà, va vào cây treo đồ bằng inox gây thương tích ở vùng trán. Thấy vậy, H N can ngăn thì bị Y D dùng tay tát vào mặt và đánh nhiều cái vào vùng đầu. Lúc này, cháu H G Niê đang ở trong phòng ngủ chạy ra đỡ H N xuống dưới phòng bếp nằm nghỉ. Sau khi đánh H N xong, Y D gọi điện thoại cho ông Y L với nội dung “Người nhà H N đòi lấy dao đánh con” và nhờ ông Y L đến nhà H N can thiệp. Nghe vậy, ông Y L điều khiển xe mô tô chở Y R P ngồi sau đi đến nhà H N. Khi Y S đi chơi về nhà, nghe chuyện Y D bị dọa đánh thì điều khiển xe mô tô đi tìm Y D. Lúc này, cháu H G cũng gọi điện cho Y R La K - em trai của H N nói về việc Y D đến nhà quậy phá nên Y R La điều khiển xe mô tô đi về nhà. Khoảng 05 phút sau, Khanh L K - anh trai của Y R La điều khiển xe mô tô chở Y R By K - em trai của Y R La đi xe mô tô về nhà.

Khi đến nhà H N, thấy H N và ông Y N1 bị thương nên ông Y L hỏi chuyện, đồng thời lấy khăn lau máu trên trán cho ông Y N1. Vừa lúc đó, Y R La về đến nhà, đi đường bên hông nhà vào phòng bếp lấy 01 con dao dài 40cm (cán dao bằng gỗ dài 13cm, có gắn khuy bằng kim loại ở hai đầu, lưỡi dao bằng kim loại dài 27cm, bản rộng nhất 07cm, đầu dao ngang) rồi đi lên phòng khách nói to “Sao bọn mày dám đến quậy nhà tao, tao chém hết bọn mày”. Nghe vậy, ông Y L xua hai tay về phía Y R La và hỏi “Có chuyện gì vậy, đang nói chuyện mà cầm dao lên vậy?” thì Y R La dùng dao chém nhẹ 01 nhát trúng vào vùng đầu và kẽ ngón tay bàn tay phải (do lúc này ông Y L giơ tay lên). Thấy vậy, Y D, Y R P và Y S chạy vào can ngăn, đè vật Y R La ở giữa nền nhà, Y R P dùng tay đè vào cổ của Y R La còn Y D dùng tay đánh vào bộ phận sinh dục của Y R La nên Y R La buông con dao đang cầm trên tay ra, ông Y L lấy được con dao rồi nói với Y D, Y S và Y R P “Đi ra ngoài đi”. Khi Y D vừa đứng dậy đi được vài bước thì do bực tức vì bị Y D đánh trước đó nên ông Y N1 dùng miệng cắn vào đùi trái của Y D. Thấy vậy, ông Y L can ngăn, kéo ông Y N1 ra rồi đi ra sân thì bị ông Y N1 dùng ná cao su bắn 02 cục đá nhỏ trúng vào người nhưng không gây ra thương tích gì. Lúc này, Y R La chạy ra sân, nhặt đá ném về phía Y S và Y D nhưng không trúng, Y S cũng nhặt đá ném lại Y R La nhưng không trúng. Thấy Y R P đi ra đứng ở thềm nhà, cách mình khoảng 05m-06m thì Y R La lấy 01 cục đá, kích thước (0,07x0,045x0,0355)m ném trúng vào vùng thái dương bên phải làm Y R P bị choáng nên đi vào ghế ở phòng khách ngồi. Y R La tiếp tục đi ra chuồng heo phía sau nhà lấy 01 con dao dài 48cm (cán dao bằng gỗ dài 14cm được quấn dây thun màu đen, lưỡi dao bằng kim loại dài 34cm, bản rộng nhất 06cm, đầu dao ngang) rồi đi ra sân. Lúc này, Y D đang ngồi trên xe mô tô thì Y R La tiến đến nói với Y D “Sao mày dám đánh chị tao” rồi đưa dao chỉ về phía Y D hù dọa nhiều lần nhưng không chém, sau đó Y R La dùng phần má dao gõ 01 cái vào đầu của Y D, làm con dao trượt xuống gây ra thương tích ở mu bàn tay phải và cẳng tay phải của Y D, rồi Y R La dùng chân đá 01 cái trúng vào chân của Y D thì được Khanh L can ngăn nên Y R La dừng lại không đánh Y D nữa. Thấy Y R P đang ngồi trong phòng khách, Y R La đóng cửa chính lại rồi chạy vòng ra cửa sau vào phòng khách, tiến đến vị trí Y R P đang ngồi và nói “Mày là thằng nào, sao dám bóp cổ tao” rồi dùng chân đá 01 cái vào vùng miệng và dùng dao đánh 01 cái vào tay trái của Y Rip P. Lúc này, Khanh L chạy từ cửa sau, đi vào phòng khách can ngăn thì Y R La dừng lại rồi Khanh L lấy dao trên tay Y R La mang đi cất. Sau đó, ông Y L, Y R P và Y D được đưa đi điều trị thương tích.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 457/TgT-TTPY ngày 13/4/2021 của Trung tâm Pháp y tỉnh Đ kết luận: Y R P B, bị: "Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là: 37%, cụ thể:

+ Vết thương để lại sẹo hơi cong mở lên trên (thái dương má phải), nằm giữa tai và tóc mai bên phải, kích thước 2cm x 0,2cm, tỷ lệ: 3%;

+ Tổn thương làm biến đổi sắc tố da 1/3 trên vành tai phải, kích thước 0,5cm x 0,5cm, tỷ lệ: 1%;

+ Vết thương để lại sẹo niêm mạc ngoài môi dưới bên trái, kích thước 1cm x 0,2cm, tỷ lệ: 1%;

+ Vết thương để lại sẹo mặt sau 1/3 trên cẳng tay trái, kích thước 1,2cm x 0,5cm, tỷ lệ: 1%;

+ Nứt xương đá phải gây tai phải nghe kém trung bình - nhẹ, liệt không hoàn toàn dây VII ngoại biên phải, tỷ lệ: 32%;

+ Gãy ngang thân răng R22, tỷ lệ: 2%;

Vật tác động: Vật sắc và vật tày. Cơ chế hình thành thương tích:

+ Vết thương để lại sẹo hơi cong mở lên trên (vùng thái dương má phải, nằm giữa tai và tóc mai bên phải) và biến đổi sắc tố da 1/3 trên vành tai phải làm nứt xương đá phải gây tai phải nghe kém trung bình - nhẹ, liệt không hoàn toàn dây VII ngoại biên phải (mắt phải nhắm không kín, méo miệng về bên trái) do vật tày cứng, có cạnh tiết diện nhỏ tác động trực tiếp gây nên có chiều hướng từ dưới lên trên, từ phải qua trái;

+ Vết thương để lại sẹo niêm mạc ngoài môi dưới bên trái và gãy ngang thân răng R22 do vật tày tác động trực tiếp gây nên có chiều hướng từ trước ra sau, từ trái qua phải;

+ Vết thương chưa cắt chỉ, nằm chéo mặt sau ngoài 1/3 trên cẳng tay trái do vật sắc tác động trực tiếp gây nên có chiều hướng từ trên xuống dưới, từ trước ra sau, từ trái qua phải." Tại Bản kết luận giám định pháp y trên hồ sơ số 548/PYHS-PC09 ngày 11/6/2021 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Đ thể hiện:

"Thương tích để lại sẹo thái dương và tai phải của Y R P B là do vật cứng, tày, có góc và có cạnh gây ra. Đặc điểm của mẫu M1 và M2 (cục đá có dính bê tông và đất kích thước (10x09x05)cm và cục đá có kích thước (07x4,5x3,5)cm) đều là vật cứng, tày, có góc và có cạnh phù hợp với thương tích; mẫu M3, M4 (con dao dài 40cm, cán dao bằng gỗ dài 13cm có gắn khuy bằng kim loại ở hai đầu, lưỡi dao bằng kim loại dài 27cm, bản rộng nhất 07cm, một lưỡi sắc, mũi dao bằng và con dao dài 48cm, cán dao bằng gỗ dài 14cm, xung quanh cán dao được quấn dây thun màu đen, lưỡi dao bằng kim loại dài 34cm, bản rộng nhất 06cm, một lưỡi sắc, mũi dao bằng) đều là vật cứng, sắc không phù hợp với thương tích.

Kết luận: Mẫu M1 và M2 (02 cục đá) đều có khả năng gây ra được thương tích để lại sẹo hơi cong mở lên trên (thái dương má phải), nằm giữa tai và tóc mai bên phải, kích thước 02cm x 0,2cm làm nứt xương đá phải gây tai phải kém nghe trung bình - nhẹ, liệt không hoàn toàn dây VII ngoại biên của Y R P B." Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 456/TgT-TTPY ngày 11/4/2021 của Trung tâm Pháp y tỉnh Đ kết luận ông Y N1 K: "Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 3%.

Vật tác động: Vật tày có cạnh Cơ chế hình thành thương tích: Vết thương để lại sẹo nằm chéo vùng trán phải do vật tày tác động trực tiếp gây nên có chiều hướng từ trên xuống dưới, từ trước ra sau." Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 454/TgT-TTPY ngày 11/4/2021 của Trung tâm Pháp y tỉnh Đ kết luận ông Y L Buôn D: "Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 3%. Cụ thể: Vết thương để lại sẹo hình cung mở xuống dưới vùng đỉnh thái dương phải, cách tai phải 8,5cm, cách chân tóc thái dương phải 4cm, kích thước 4cmx0,3cm, tỷ lệ 2%. Vết thương để lại sẹo kẽ ngón I, II ngay khớp bàn ngón II bàn tay phải, kích thước 2,5cmx0,1cm, tỷ lệ 1%.

Vật tác động: Vật sắc.

Cơ chế hình thành thương tích: Vết thương để lại sẹo hình cung mở xuống dưới vùng đỉnh thái dương 214 do vật sắc tác động trực tiếp gây nên có chiều hướng từ trên xuống dưới, từ trước ra sau, từ trái qua phải; Vết thương để lại sẹo kẽ ngón I, II ngay khớp bàn ngón II bàn tay phải do vật sắc tác động trực tiếp gây nên có chiều hướng từ trên xuống dưới, từ trước ra sau, từ trái qua phải" Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 455/TgT-TTPY ngày 11/4/2021 của Trung tâm Pháp y tỉnh Đ kết luận Y D B: "Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 3%. Cụ thể: Xây xát để lại sẹo mặt sau trong 1/3 dưới cẳng tay phải, kích thước 1cmx0,5cm, tỷ lệ 1%. Xây xát để lại sẹo mặt mu bàn tay phải, ngay xương bàn V, kích thước 1cmx0,5cm, tỷ lệ 1%. Vết biến đổi sắc tố da mặt trước 1/3 giữa đùi trái, kích thước 3,5cmx0,5cm, tỷ lệ 1%.

Vật tác động: Vật tày có cạnh.

Cơ chế hình thành thương tích: Xây xát để lại sẹo mặt sau trong 1/3 dưới cẳng tay phải, sẹo mặt mu bàn tay phải do vật tày có cạnh tác động trực tiếp gây nên có chiều hướng từ trên xuống dưới, từ trước ra sau; Vết biến đổi sắc tố da mặt trước 1/3 giữa đùi trái do vật tày có cạnh tác động trực tiếp gây nên có chiều hướng từ trên xuống dưới, từ trước ra sau." Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 473/TgT-TTPY ngày 14/4/2021 của Trung tâm Pháp y tỉnh Đ kết luận H N K: Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 0%.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 10/2022/HSST, ngày 17/6/2022 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Đắk Lắk đã tuyên bố bị cáo Y R La K phạm tội: “Cố ý gây thương tích” Căn cứ điểm c, khoản 3 Điều 134; các điểm b, e, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, các Điều 38, 54 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Y R La K 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt tạm giam, ngày 16/6/2021.

Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng các Điều 584; 585; 586 và Điều 590 Bộ luật dân sự. Buộc bị cáo Y R La K có nghĩa vụ bồi thường cho ông Y R P B 40.000.000 đồng (Bốn mươi triệu đồng); bồi thường cho ông Y L B 5.500.000 đồng (Năm triệu năm trăm nghìn đồng) và bồi thường cho ông Y D B 4.000.000 đồng (Bốn triệu đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, về án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 20/6/2022 bị cáo Y R La K làm đơn kháng cáo với nội dung đề nghị cấp phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Ngày 28/6/2022 những người bị hại ông Y R P B, ông Y L Buôn D, ông Y D B làm đơn kháng cáo với nội dung đề nghị cấp phúc thẩm xem xét tăng mức hình phạt đối với bị cáo, ngoài ra ông Y R P B còn kháng cáo đề nghị tăng mức bồi thường thiệt hại.

Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo, những người bị hại vẫn giữ nguyên nội dung đơn kháng cáo.

Kết quả xét hỏi tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi mà bị cáo đã thực hiện đúng như nội dung vụ án đã được tóm tắt nêu trên.

Quá trình tranh luận tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đ cho rằng: Mức hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm tuyên phạt bị cáo 04 năm 06 tháng tù là thỏa đáng và phù hợp với quy định của pháp luật, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, e, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự nên đề nghị HĐXX không chấp nhận kháng cáo về việc xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo và đề nghị tăng hình phạt đối với bị cáo của các bị hại, giữ nguyên hình phạt của Bản án sơ thẩm đối với bị cáo Y R La K.

Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu của bị hại ông Y R P B về việc yêu cầu bị cáo phải bồi thường thêm cho bị hại số tiền bị hại phải điều trị tại nhà trong thời gian 20 ngày (20 ngày x 200.000 đồng/ngày = 4.000.000 đồng) và sửa một phần bản án về trách nhiệm dân sự.

Bị cáo không tranh luận, bào chữa gì chỉ đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Những người bị hại đề nghị tăng mức hình phạt đối với bị cáo. Ông Y R P B đề nghị tăng mức bồi thường.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét lời khai nhận của bị cáo Y R La K tại phiên tòa phúc thẩm là phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ cơ sở kết luận: Do ý thức coi thường pháp luật, xem nhẹ sức khỏe của người khác nên vào khoảng 17 giờ 00 phút ngày 14/02/2021 tại buôn E, xã E, huyện C, bị cáo Y R La K đã dùng đá, dao và chân đánh ông Y R P B gây thương tích 37%; dùng dao chém nhẹ một phát vào đầu và tay ông Y L Buôn D gây thương tích 3%; dùng dao gõ 01 cái vào đầu của ông Y D B làm con dao trượt xuống gây ra gây thương tích 2% ở tay. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm c, khoản 3, Điều 134 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo và kháng cáo tăng mức hình phạt của các bị hại đối với bị cáo thấy rằng: mức hình phạt 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng tù mà cấp sơ thẩm đã áp dụng đối với bị cáo Y R La K là thỏa đáng, tương xứng với tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra.

Bởi lẽ, khi nghe H G gọi điện nói Y D đến nhà quậy phá, bị cáo đã điều khiển xe mô tô đi về nhà. Khi về đến nhà thấy chị gái và bác bị đánh gây thương tích làm cho tinh thần của bị cáo bị kích động mạnh, bị cáo không hoàn toàn tự chủ, tự kiềm chế được hành vi phạm tội của mình nên đã có hành vi dùng đá, dao, chân gây thương tích cho Y D, Y R P và ông Y L. Như vậy, bản án sơ thẩm đã áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của người bị hại gây ra là có căn cứ. Các bị hại kháng cáo cho rằng bị cáo phạm tội có tính chất côn đồ là không có cơ sở.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, sau khi phạm tội bị cáo đã tác động gia đình bồi thường một phần thiệt hại cho người bị hại thể hiện sự ăn năn hối cải; bị cáo là người dân tộc thiểu số, có trình độ học vấn thấp, nhận thức pháp luật còn hạn chế, phạm tội lần đầu và có nhân thân tốt. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, sau khi phạm tội bị cáo đã tác động gia đình bồi thường một phần thiệt hại cho người bị hại thể hiện sự ăn năn hối cải; bị cáo là người dân tộc thiểu số, có trình độ học vấn thấp, nhận thức pháp luật còn hạn chế, phạm tội lần đầu và có nhân thân tốt, bị cáo phạm tội có một phần lỗi của bị hại. Cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, e, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Do bị cáo không có tình tiết tăng nặng, được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, cấp sơ thẩm áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt cho bị cáo là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật. Tại cấp phúc thẩm bị cáo không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ nào mới. Do đó, HĐXX không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo và những người bị hại, giữ nguyên bản án sơ thẩm về mức hình phạt đối với bị cáo.

[3] Về kháng cáo tăng mức bồi thường của ông Y R P B. Bản án sơ thẩm đã quyết định bị cáo có trách nhiệm bồi thường cho ông Y R P B số tiền 50.000.000đồng, khấu trừ số tiền 10.000.000 đồng mà gia đình bị cáo đã bồi thường, bị cáo phải tiếp tục bồi thường số tiền còn lại cho ông Y R P B là 40.000.000 đồng.

Tại đơn kháng cáo ông Y R P B cho rằng bản án sơ thẩm quyết định chi phí đi tái khám tại bệnh viện 115 thành phố Hồ Chí Minh chỉ có 965.000 đồng là quá thấp.

HĐXX xét thấy: Tại đơn yêu cầu bồi thường về dân sự ông Y R P B thể hiện chi phí đi tái khám tiền xe 800.000 đồng, tiền khám 165.000 đồng, tổng cộng 965.000 đồng. Tại cấp phúc thẩm ông Y R P B không xuất trình được tài liệu chứng cứ thể hiện chi phí nhiều hơn nên HĐXX không có căn cứ chấp nhận.

Đối với yêu cầu về tiền thu nhập bị mất trong thời gian điều trị: Ông Y R P B yêu cầu bị cáo phải bồi thường tiền thu nhập bị mất từ ngày 14/02/2021 đến nay. Bản án sơ thẩm đã tính tiền thu nhập bị mất của ông Y R P B và người chăm sóc trong thời gian điều trị tại bệnh viện từ ngày 14/02/2021 đến ngày 02/3/2021. Tuy nhiên, Bản án sơ thẩm chưa tính tiền bồi thường đối với thu nhập bị mất trong thời gian ông Y R P B phải điều trị tại nhà. Do đó, HĐXX thấy cần chấp nhận một phần đơn kháng cáo của ông Y R P B về việc buộc bị cáo phải bồi thường tiền thu nhập bị mất trong thời gian ông Y R P B điều trị tại nhà. Đối với kháng cáo yêu cầu bồi thường tiền thu nhập bị mất từ ngày 14/02/2021 đến nay là không có căn cứ nên HĐXX không chấp nhận.

Về mức bồi thường trong thời gian điều trị tại nhà HĐXX xem xét như sau: Cần buộc bị cáo bồi thường thêm cho ông Y R P B số tiền điều trị tại nhà trong thời gian 20 ngày (20 ngày x 200.000 đồng/ngày = 4.000.000 đồng).

Như vậy tổng cộng số tiền buộc bị cáo phải bồi thường cho ông Y R P B là 54.000.000 đồng. Khấu trừ số tiền 10.000.000 đồng mà gia đình bị cáo đã bồi thường, buộc bị cáo phải tiếp tục bồi thường số tiền còn lại cho ông Y R P B là 44.000.000 đồng.

[3] Về án phí phúc thẩm: Do không được chấp nhận kháng cáo, nên bị cáo Y R La K phải chịu án phí hình sự phúc thẩm. Những người bị hại không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a, b khoản 1 Điều 355; Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự

[1]. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Y R La K, những người bị hại Y R P B, ông Y L Buôn D, ông Y D B – Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 10/2022/HSST ngày 17/6/2022 của Tòa án nhân dân huyện C về hình phạt, sửa một phần bản án sơ thẩm về trách nhiệm dân sự.

Căn cứ điểm c, khoản 3 Điều 134; các điểm b, e, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, các Điều 38, 54 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Y R La K 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”.

Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt tạm giam, ngày 16/6/2021.

[2]. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ các Điều 584; 585; 586 và Điều 590 Bộ luật dân sự. Buộc bị cáo Y R La K có nghĩa vụ bồi thường cho ông Y R P B số tiền còn lại 44.000.000 đồng (Bốn mươi bốn triệu đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

[3]. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án;

Bị cáo Y R La K phải chịu 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

9
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 193/2022/HS-PT

Số hiệu:193/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về