Bản án về tội cố ý gây thương tích số 177/2020/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 177/2020/HS-ST NGÀY 18/12/2020 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 18 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 178/2020/HSST ngày 02 tháng 12 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 189/2020/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo: Tô Đình H, sinh ngày 10/8/1996, nơi sinh: Tỉnh Thái Bình. Nơi cư trú: Thôn T, xã T, huyện T, tỉnh Thái Bình. Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 9/12; quốc tịch: Việt Nam; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; không rõ cha, con bà Tô Thị L, vợ, con: Chưa có; nhân thân: Bản án số 52/2013/HSST ngày 17/10/2013 của Tòa án nhân dân huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình xử phạt 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, chấp hành án phạt tù tháng 8 năm 2014, chấp hành xong trách nhiệm dân sự ngày 09/9/2013, án phí hình sự được đình chỉ tại Quyết định đình chỉ số 06/QĐ-CCTHADS ngày 16/9/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình. Tiền án; tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt truy nã, bị tạm giữ từ ngày 20/11/2020 đến ngày 23/11/2020 chuyển tạm giam cho đến nay.

* Bị hại: Anh Lê Thanh T1, sinh năm 1998.

Nơi cư trú: Thôn T, xã V, thành phố T, tỉnh Thái Bình.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Lại Văn T2, sinh năm 1990.

Nơi cư trú: Số nhà 135, đường P, tổ 17, phường K, thành phố T, tỉnh Thái Bình.

2. Anh Nguyễn Đức T3, sinh năm 1996.

Nơi cư trú: Thôn G, xã S, huyện V, tỉnh Thái Bình.

* Người làm chứng:

1. Anh Mai Văn B, sinh năm 1993.

Nơi cư trú: Thôn C, xã V, thành phố T, tỉnh Thái Bình.

2. Anh Bùi Xuân V, sinh năm 1994.

Nơi cư trú: Thôn T, xã V, thành phố T, tỉnh Thái Bình.

3. Bà Phạm Thị T4, sinh năm 1958.

Trú tại: Số nhà 26, ngõ 09, đường Q, tổ 01, phường Q, thành phố T, tỉnh Thái Bình.

(Bị cáo có mặt. Anh T1, anh T2, anh T3, anh B, anh V, bà T4 đều vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22 giờ 30 phút, ngày 25/02/2020 Tô Đình H cùng Nguyễn Đức T2 đến ăn ở quán ăn đêm của ông Vũ Văn T5 ở khu vực cầu K thuộc tổ 01, phường PK. Tại quán ăn H có lời qua tiếng lại với Mai Văn B, cùng đi với B có anh Lê Thanh T1. B lấy điếu cày ở quán của ông T5 để đánh H và T3 nhưng H và T3 bỏ chạy. Lúc này có Trần Xuân T (T Cò) vào can ngăn và lấy chiếc điếu cày từ tay B. Ông T5 nghĩ T1 dùng điếu cày để đánh nhau nên mắng chửi T1, T1 bực tức cầm điếu cày vụt vào đầu ông T5 làm ông T5 bị choáng. Ông T5 gọi điện nói lại việc bị đánh cho con trai là Vũ Xuân T6, T6 gọi điện cho Mai Văn B hỏi người đánh ông T5 thì được B nói là nhóm của “T2 OK”.

Khoảng 10 giờ ngày 26/02/2020, T6 gọi điện cho Lại Văn T2 (thường gọi là TC) hỏi Thái có biết thằng nào tên là T2 OK không, tối qua đánh bố Th. T2 trả lời không có T2 OK, chỉ có Linh OK. Sau đó T2 cùng bạn là Tiệp (chưa rõ họ tên, nhà ở tỉnh Bắc Ninh) đến khu vực cầu K ăn sáng thì gặp nhóm của Th gồm có Hoàng Tiến Đ, Trần Ngọc L và Phạm Quang Đ. Th nói cho T2 về việc tối ngày 25/02/2020, bố Th là ông M bị 01 nam thanh niên dùng điều cày vụt vào đầu. T2 nhớ ra là đêm ngày 25/02/2020, Tô Đình H là bạn của T2 có đánh nhau với Mai Văn B tại quán ăn đêm tại khu vực cầu K nên T2 nói với Th sẽ gọi cho H ra xem có phải H là người đánh ông M không. Th rủ T2, Tiệp cùng mọi người ra quán bia 30/6 và T2 gọi điện cho H, yêu cầu H gọi hết những người đi cùng H vào tối ngày 25/02/2020 đến quán bia 30/6 để xem ai là người đã đánh ông M thì xin lỗi. H gọi cho Nguyễn Đức T và Tùng (Cò) đến quán bia 30/6. Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 26/02/2020 thì H, Tuyên, Tùng (Cò) đến quán bia 30/6, T2 hỏi H, T, Tùng (Cò), ai là người đã đánh ông M thì xin lỗi và nhận bồi thường thiệt hại thì không ai nhận. Th bảo Hoàng Tiến Đ về nhà đón mẹ Th là bà Hà Thị Huế đến quán bia 30/6 để nhận mặt. Bà Huế chỉ vào Tùng (Cò) là người đã đánh ông M. Đ ghì tay vào cổ lôi Tùng (Cò) ra khỏi quán bia và dùng tay chân đấm đá Tùng (Cò), Th và nhóm người đi cùng cũng đánh Tùng (Cò).

Thấy vậy T2, H can ngăn thì mọi người không đánh Tùng (Cò) nữa. T2 phát hiện Mai Văn B chở anh Lê Thanh Tùng bằng xe mô tô Honda Wave màu xanh ngọc, biển số 17B9 - 325.13 đến. B chửi T2 “Đ. mẹ thằng TC”. Do đang bực tức về việc Tùng (Cò) bị đánh lại bị B chửi nên T2 nghĩ B là người do Th bảo đến để đánh nhóm của T2 nên T2 lao vào đánh B, B để lại xe mô tô và bỏ chạy theo hướng từ đường Tr đến cầu K. Tiệp, H, T cùng chạy đuổi B nhưng không đuổi kịp nên cả nhóm quay lại. H nhìn thấy anh Lê Thanh Tùng đang ở quán nước vỉa hè đường Tr, khu vực đầu ngõ 9, tổ 01, phường Tr thì hô lên “Thằng kia hôm qua cũng đánh em”. T2 nhặt 01 chiếc chổi cán bằng gỗ dài khoảng 01 mét ở lề đường, đạp gẫy phần chổi chạy đến chỗ anh Lê Thanh Tùng đang đứng. T2 cầm đoạn gậy gỗ bằng tay phải giơ lên cao, vụt từ trên xuống dưới, nhiều nhát về phía người anh Tùng, trong đó một nhát trúng vào đầu anh Tùng làm anh Tùng ngồi xuống hai tay ôm đầu thì bị gậy vụt trúng vào cổ tay phải, 02 vai khiến gậy bị gãy, đồng thời Tiệp, T và H cũng lao vào dùng chân tay đấm đá vào người anh Tùng khiến anh Tùng ngã nằm ra đất. T2, Tiệp, H, T về quán bia 30/6 lấy xe đi về. Anh Tùng bị đa chấn thương vùng đầu, vùng vai và vùng cổ tay phải, được đưa đi điều trị tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Thái Bình từ ngày 26/02/2020 đến ngày 11/3/2020.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 24/20/TgT ngày 07/3/2020 của Trung tâm pháp y - Sở y tế tỉnh Thái Bình thể hiện: 1. Chấn thương vùng đầu, vùng vai và vùng cổ tay phải do vật tày cứng tác động làm tăng tỉ M tự nhiên thùy trán phải, đã được xử trí thuốc kháng sinh, giảm đau, tăng cường tuần hoàn não. Hiện tại các vết thương còn sưng nề ấn đau. 2. Tỉ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định là 15% .

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận hành vi của mình đúng như bản cáo trạng đã nêu.

Bản cáo trạng số 171/CT-VKSTPTB ngày 30 tháng 11 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình truy tố bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ, khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự (thuộc trường hợp quy định tại điểm a, i khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự).

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo về tội danh và đề nghị Hội đồng xét xử:

* Về hình phạt: Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 50; Điều 17, Điều 58, Điều 38 Bộ luật Hình sự, đề nghị: Xử phạt bị cáo từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 20/11/2020.

* Về xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự: Đã giải quyết tại Bản án số 154/2020/HS-ST ngày 17/11/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình.

Bị cáo không bào chữa và không có ý kiến tranh luận.

Bị cáo nói lời sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án được thực hiện đúng theo quy định của pháp luật về thẩm quyền, trình tự, thủ tục nên các hành vi, quyết định tố tụng trong vụ án này là hợp pháp. Bị cáo, những người tham gia tố tụng không khiếu nại hay có ý kiến gì.

[2] Về căn cứ kết tội đối với các bị cáo: Xét thấy lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được chứng minh bằng:

- Đơn trình báo, đơn đề nghị giám định thương tích, lời khai, đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị hại.

- Giấy chứng nhận thương tích ban đầu, bản sao bệnh án của bị hại điều trị tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Thái Bình.

- Kết luận giám định pháp y về thương tích số 24/20/TgT ngày 07/3/2020 của Trung tâm pháp y Sở y tế tỉnh Thái Bình.

- Biên bản khám nghiệm hiện trường, sơ đồ hiện trường, bản ảnh khám nghiệm hiện trường.

- Biên bản nhận dạng, bản ảnh nhận dạng.

- Lời khai người làm chứng, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án.

Cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 13 giờ ngày 26/02/2020, tại khu vực vỉa hè đường Tr giáp đầu ngõ 09, tổ 01, phường Tr, thành phố Thái Bình, khi được Tô Đình H nói anh Lê Thanh Tùng là người đã đánh nhau với H tối hôm trước, Lại Văn T2 dùng 01 đoạn gậy gỗ (cán chổi) vụt nhiều nhát vào người anh Tùng đồng thời Tiệp, Nguyễn Đức T và Tô Đình H cũng lao vào dùng chân tay đấm đá vào người anh Lê Thanh Tùng, làm anh Tùng bị chấn thương vùng đầu, vùng vai và vùng cổ tay phải, tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định là 15%. (Hiện chưa xác định rõ họ, tên đệm, năm sinh và địa chỉ của Tiệp).

Lại Văn T2 và Nguyễn Đức T đã được đưa ra xét xử tại Bản án số 154/2020/HS-ST ngày 17/11/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình.

Hành vi nêu trên của bị cáo đã phạm vào tội: “Cố ý gây thương tích”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự (thuộc trường hợp quy định tại điểm a, i khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự).

Điều 134 Bộ luật hình sự “Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác” quy định:

“1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người;

....

i) Có tính chất côn đồ;

...

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 06 năm:

...

đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này.

...

[3] Về tính chất, mức độ, hậu quả, hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi của bị cáo gây thương tích cho anh Lê Thanh Tùng là nguy hiểm cho xã hội, vi phạm pháp luật hình sự. Hành vi của bị cáo thể hiện sự coi thường sức khỏe của con người được pháp luật bảo vệ, tính chất vụ án là nghiêm M, gây dư luận xấu trong nhân dân, gây mất trật tự trị an, vì vậy cần phải xử lý nghiêm minh đối với bị cáo mới có tác dụng cải tạo, giáo dục và phòng ngừa tội phạm.

Xét vai trò của bị cáo trong vụ án: Vụ án có tính chất đồng phạm giản đơn, khi được H thông báo anh Tùng là người đã đánh nhau với H, H cùng Lại Văn T2, Nguyễn Đức T và Tiệp cùng nảy sinh ý định phạm tội, tiếp nhận ý chí của nhau để thực hiện tội phạm, thể hiện tính chất côn đồ, hung hãn. Lại Văn T2 là người đầu tiên trực tiếp dùng gậy gỗ là hung khí nguy hiểm, gây thương tích chủ yếu cho bị hại, vì vậy bị cáo T2 giữ vai trò thứ nhất. Tô Đình H là người chỉ điểm bị hại cho đồng phạm, dùng tay chân đấm đá bị hại nên giữ vai trò thứ hai. Nguyễn Đức T và Tiệp là đồng phạm thực hiện, giữ vai trò thứ ba trong vụ án.

[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo có nhân thân xấu, đã từng phạm tội bị Tòa án đưa ra xét xử. Trong giai đoạn truy tố bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã, thể hiện bị cáo chưa thực sự ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào theo quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ là thành khẩn khai báo, bị cáo tác động gia đình bồi thường thiệt hại cho bị hại, bị hại có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Các tình tiết này được giảm nhẹ theo quy định tại điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về hình phạt: Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo. Cần thiết phải xử phạt mức hình phạt nghiêm minh với hành vi phạm tội của bị cáo và phải cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng cải tạo giáo dục bị cáo và đấu tranh phòng ngừa tội phạm.

Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình phù hợp với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo. Hội đồng xét xử cần xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng, về trách nhiệm dân sự và các vấn đề khác đã giải quyết tại bản Bản án số 154/2020/HS-ST ngày 17/11/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình.

[7] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 50; Điều 17, Điều 58; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

- Căn cứ Điều 135; Điều 331; 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

- Căn cứ Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tội danh

- Tuyên bố: Bị cáo Tô Đình H phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

2. Hình phạt: Xử phạt bị cáo 02 (hai) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 20/11/2020.

3. Án phí: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 18/12/2020). Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

245
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 177/2020/HS-ST

Số hiệu:177/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về