Bản án về tội cố ý gây thương tích số 176/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 8, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 176/2021/HS-ST NGÀY 14/12/2021 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 14 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 122/2021/TLST-HS ngày 22 tháng 6 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 242/2021/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 11 năm 2021, đối với các bị cáo:

1. Võ Quốc T; sinh năm: 1986 tại tỉnh G; nơi cư trú: 115 đường D, Phường X, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Làm công; trình độ học vấn: 02/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Cha: Không rõ, mẹ Võ Thị T; vợ Huỳnh Gia M có 02 con, con lớn sinh năm 2011, con nhỏ sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: không. Bị cáo tại ngoại, (có mặt)

2. Nguyễn Hữu T1; sinh năm: 1987, tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi cư trú: 46/6 đường D, Phường 9, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Làm công; trình độ học vấn: 03/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Hữu T (đã chết) và bà Nguyễn Thị Cẩm H; tiền án, tiền sự: không. Bị cáo tại ngoại, (có mặt)

- BỊ hại: Ông Hà Văn H; sinh năm: 1968; nơi cư trú (nơi đăng ký thường trú: 43/518D đường T, Phường X, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: số 15 đường 3278A đường H, Phường X, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh), (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 18 giờ ngày 30/7/2020, Nguyễn Hữu T1 điều khiển xe gắn máy chở bạn gái tên Thái T2 (không rõ lai lịch) và Võ Quốc T (bạn của T1) điều khiển xe gắn máy chở vợ là Huỳnh Gia M đến nhà dì một của T1 là chị Nguyễn Thái Q tại địa chỉ số 15 đường số 3278A Đường H, phường Y, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh. Sau đó, cả 05 người cùng nhậu tại trước nhà số 15 đường so 3278A Đường H, phường Y, Quận 8. Một lúc sau, ông Hà Văn H (chồng của chị Q) đi nhậu về, ông H không cho mọi người nhậu trước nhà và yêu cầu dọn dẹp. Cả 05 người dọn ra bãi đất trống trước nhà số 17 đường 3278A Đường H, phường Y, Quận 8 ngồi nhậu tiếp. Khoảng nửa tiếng đồng hồ sau, ông H đi ra yêu cầu cả nhóm dọn dẹp, không được nhậu nhưng cả nhóm vẫn ngồi nhậu nên ông H tức giận la mắng chị Q rồi vào đi ngủ. Một lúc sau, ông Huỳnh Văn L (anh rể của ông H) đến tìm ông H nên ông H thức dậy ra gặp ông L. Cả nhóm rủ ông H và ông L vào nhậu chung. Trong lúc nhậu, giữa ông L và T nảy sinh mâu thuẫn cãi nhau nên ông H và T1 can ngăn ra, T chở vợ về. Lúc này, ông H la mắng T1 vì T có hành vi hỗn với ông L. Do bị la mắng, T1 gọi T quay lại để giải quyết. Khi ông H đang dọn dẹp bàn nhậu, T1 lao đến đánh ông H, ông H thấy T1 lao đến nên giật mình trượt chân té ngã. T1 dùng tay phải chụp lấy ly uống bia (loại ly thủy tinh có quai cầm, cao khoảng 15 cm, rộng khoảng 10cm) đánh một cái vào đầu ông H, làm ông H bị thương chảy máu. Lúc này, T điều khiển xe quay lại thấy ông H bị chảy máu, T dựng xe chạy vào nhà số 15 đường số 3278A Đường H, phường Y, Quận 8 lấy một cây kéo đuổi đánh ông L. T đuổi theo ông L được khoảng 10m thì quay lại ném cây kéo xuống đất và dùng tay phải lấy một chiếc ly uống bia bằng thủy tinh (loại ly có quai cầm, cao khoảng 15cm, rộng khoảng 10cm) ném trúng đầu ông H làm ông H ngã xuống đống mảnh vỡ thủy tinh, bất tỉnh. Sau đó, T1 và T điều khiển xe chở vợ và bạn gái đi về. Ông H được đưa đi cấp cứu. Chị Q đến Công an Phường 7, Quận 8 trình báo.

Ngày 12/11/2020, Trung tâm pháp y có Kết luận giám định số 1034/TgT.20 kết luận về thương tích của ông Hà Văn H như sau:

- Đa vết thương phần mềm đã được điều trị, hiện còn:

+ Một sẹo vùng đỉnh trái kích thước 2x(0,1-0,2)cm

+ Một sẹo vùng đỉnh phải kích thước 2x(0,1-0,3)cm

+ Một sẹo vùng đỉnh trán phải kích thước 3x(0,1-0,3)cm

Các thương tích trên do vật tày, tày có cạnh, vật sắc, vật sắc nhọn hoặc vật có cạnh sắt tác động gây ra.

+ Một sẹo vùng trán phải (ngoài tóc) kích thước 1,6x(0,05-0,1)cm

+ Một sẹo vùng mày phải kích thước 1,3x0,05cm

Các thương tích trên do vật tày có cạnh tác động gây ra.

+ Một sẹo vùng mạn sườn trái kích thước 13x(0,2-0,4)cm

Thương tích trên do vật sắc, vật sắc nhọn hoặc vật có cạnh sắc tác động gây ra.

+ Một sẹo tăng sắc tố tại vùng dưới ngoài gối trái kích thước 1,8x1,2cm

Thương tích trên do vật tày nhám tác động hoặc do phần cơ thể tác động vào vật tày nhám gây ra.

- Tỷ lệ tổn thương có thể do thương tích gây nên hiện tại là 11%

- Kết luận khác:

- Cây chày như bản ảnh quí cơ quan cung cấp gây ra ra được thương tích vùng đỉnh trái, đỉnh phải và vùng đỉnh trán phải, không gây ra được các thương tích còn lại.

- Ly thủy tinh và mảnh vỡ không thu giữ được nên không đủ cơ sở trả lời.

Ngày 12/11/2020, Trung tâm pháp y có công văn trả lời về việc giải thích kết luận giám định đối với ông Hà Văn H như sau:

Theo bản kết luận giám định số 1034/TgT.20 về thương tích của Hà Văn H sinh năm 1968:

- Thương tích:

+ Tại trán phải và mày phải có tỷ lệ 03% (ba phần trăm) mỗi vết.

+ Tại mạn sườn trái có tỷ lệ 02% (hai phần trăm).

+ Bốn thương tích còn lại có tỷ lệ 01 (một phần trăm) mỗi vết.

- Cộng dồn các tỷ lệ trên theo Thông tư 22/2019/TT-BYT sẽ ra tỷ lệ 11,42% làm tròn số sẽ là 11% (mười một phần trăm).

Ngày 01/3/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 8 ra Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can và ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú đối với Nguyễn Hữu T1 và Võ Quốc T. Tại cơ quan điều tra, T1 và T khai nhận hành vi phạm tội nêu trên. T và T1 khai dùng ly bia thủy tinh ném trúng ông H, không dùng chày đánh ông H.

Trách nhiệm dân sự: Tại cơ quan điều tra công an Quận 8, bị hại Hà Văn H yêu cầu các bị cáo Nguyễn Hữu T1 và Võ Quốc T bồi thường tiền viện phí, thuốc men và tổn hại sức khỏe cho ông là 100.000.000 đồng. T1 đã bồi thường được 5.000.000 đồng. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, bị hại Hà Văn H xác nhận yêu cầu các bị cáo Nguyễn Hữu T1 và Võ Quốc T bồi thường tiền viện phí, thuốc men, tổn hại sức khỏe và tiền thu nhập bị mất do sức khỏe bị ảnh hưởng là 50.000.000 đồng. Bị cáo Nguyễn Hữu T1 đã bồi thường 5.000.000 đồng, nên nay yêu cầu bị cáo T1 bồi thường thêm 20.000.000 đồng, yêu cầu bị cáo Võ Quốc T bồi thường 25.000.000 đồng.

Vật chứng: 01 cái chày bằng gỗ dài khoảng 25cm là tài sản của chị Nguyễn Thái Q không liên quan đến vụ án, Cơ quan điều tra Công an Quận 8 ra Quyết định trả lại cho chị Q.

Tại bản Cáo trạng số 138/CT-VKSQ8 ngày 16/6/2021, Viện kiểm sát nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh truy tố các bị cáo Nguyễn Hữu T1 và Võ Quốc T về tội “Cố ý gây thương tích”, theo điểm đ, khoản 2, Điều 134 (thuộc trường hợp quy định tại điểm a và điểm i, khoản 1, Điều 134) của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 8 giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo Nguyễn Hữu T1 và Võ Quốc T về tội “Cố ý gây thương tích”. Sau khi phân tích, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm đ, khoản 2, Điều 134 (thuộc trường hợp quy định tại điểm a và điểm i, khoản 1, Điều 134), điểm b (đối với bị cáo Nguyễn Hữu T1), điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu T1 từ 02 năm 03 tháng đến 03 năm tù; xử phạt bị cáo Võ Quốc T từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm 03 tháng tù; về trách nhiệm dân sự: Đề nghị xem xét, giải quyết theo quy định pháp luật.

Các bị cáo không có ý kiến tranh luận; các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, ăn năn hối cải và xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 8, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 8, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; tại các bản tự khai, biên bản ghi lời khai, các bị cáo trình bày lời khai hoàn toàn tự nguyện, không bị ép cung, nhục hình. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận hành vi phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, xác định: vào khoảng 21 giờ, ngày 30/7/2020, tại trước nhà số 17 đường 3278A Đường H, phường Y, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh; Nguyễn Hữu T1 và Võ Quốc T chỉ vì mâu thuẫn cá nhân đã có hành vi dùng ly thủy tinh là hung khí nguy hiểm cùng gây thương tích cho ông Hà Văn H với tỷ lệ thương tật là 11%.

[3] Điều 134 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định về tội “Cố ý gây thương tích” như sau:

“1. Người nào c ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người;

....

i) Có tính chất côn đồ.

...

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 06 năm:

...

đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này.

...”

[4] Các bị cáo là người có đủ năng L trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi với lỗi cố ý, cùng cố ý thực hiện hành vi gây thương tích nên phải chịu trách nhiệm chung đối với toàn bộ hậu quả do hành vi cùng gây ra. Như vậy, Hội đồng xét xử có căn cứ xác định hành vi của các bị cáo Nguyễn Hữu T1 và Võ Quốc T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 (thuộc trường hợp quy định tại điểm a và điểm i, khoản 1, Điều 134) của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[5] Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xét tính nghiêm trọng của tội phạm mà các bị cáo đã thực hiện, cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định bằng hình phạt tù có thời hạn nhằm cải tạo, giáo dục các bị cáo trở thành người có ích, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa phạm tội mới; đồng thời phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm trong xã hội.

[6] Cáo trạng Viện kiểm sát truy tố các bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” là có cơ sở, đúng người, đúng tội. Tuy nhiên, quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về lỗi lầm mình gây ra, mong được hưởng sự khoan hồng của pháp luật; các bị cáo có trình độ nhận thức thấp, hoàn cảnh gia đình thực sự khó khăn; chưa có tiền án, tiền sự, nhân thân tốt. Bị cáo T1 đã bồi thường khắc phục một phần thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm cho bị hại. Bị cáo T là lao động chính trong gia đình để nuôi 02 con còn nhỏ. Nên Hội đồng xét xử áp dụng điểm b (đối với bị cáo Nguyễn Hữu T1), điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để giảm nhẹ một phần hình phạt mà đáng ra các bị cáo phải chịu.

[7] Xét các bị cáo phạm tội có tính chất đồng phạm nhưng chỉ mang tính nhất thời, giản đơn. Bị cáo T1 là người gọi bị cáo T quay trở lại và là người đánh bị hại H gây thương tích cho bị hại H trước. Cả hai bị cáo là người trực tiếp dùng ly thủy tinh gây thương tích cho bị hại H. Do đó, khi xem xét, quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử áp dụng Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để xem xét quyết định hình phạt phù hợp với tính chất, vai trò của từng bị cáo.

[8] Về trách nhiệm dân sự: Giai đoạn chuẩn bị xét xử, bị hại Hà Văn H xác nhận yêu cầu các bị cáo Nguyễn Hữu T1 và Võ Quốc T liên đới bồi thường cho bị hại Hà Văn H số tiền 50.000.000 đồng tiền chi phí điều trị và hao tổn sức khỏe. Do T đã bồi thường được 5.000.000 đồng nên bị hại H yêu cầu bị cáo Nguyễn Hữu T1 bồi thường 20.000.000 đồng, yêu cầu bị cáo Võ Quốc T bồi thường 25.000.000 đồng. Tại phiên tòa, các bị cáo Nguyễn Hữu T1 và Võ Quốc T cũng đồng ý bồi thường cho bị hại H số tiền như bị hại yêu cầu.

Hội đồng xét xử căn cứ Điều 48 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Khi phạm tội dẫn đến gây thiệt hại cho bị hại H, các bị cáo có vai trò và mức độ lỗi ngang nhau nên căn cứ các điều 587, 589 của Bộ luật Dân sự, buộc các bị cáo Nguyễn Hữu T1 và Võ Quốc T liên đới bồi thường cho bị hại Hà Văn H số tiền 50.000.000 đồng, buộc mỗi bị cáo bồi thường cho bị hại 50% giá trị thiệt hại, tương đương số tiền 25.000.000 đồng. Tuy nhiên bị cáo T1 đã bồi thường cho bị hại H 5.000.000 đồng. Nên buộc bị cáo Nguyễn Hữu T1 bồi thường 20.000.000 đồng, bị cáo Võ Quốc T bồi thường 25.000.000 đồng.

[9] Về xử lý vật chứng: không có.

[10] Về án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ quy định tại các điều 23, 26 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của ủy ban thường vụ Quốc hội, các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Hữu T1 và Võ Quốc T phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

- Căn cứ vào điểm đ khoản 2 Điều 134 (thuộc trường hợp quy định tại điểm a và điểm i, khoản 1, Điều 134); điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu T1 02 (hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.

Xử phạt bị cáo Võ Quốc T 02 (hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.

- Căn cứ vào Điều 48 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); các điều 357, 468, 587, 589 của Bộ luật Dân sự.

Buộc các bị cáo Nguyễn Hữu T1 và Võ Quốc T liên đới bồi thường cho ông Hà Văn H số tiền 50.000.000 (năm mươi triệu) đồng. Trong đó, buộc bị cáo Nguyễn Hữu T1 bồi thường 20.000.000 (hai mươi triệu) đồng (do bị cáo T1 đã bồi thường được 5.000.000 (năm triệu) đồng), bị cáo Võ Quốc T bồi thường 25.000.000 (hai mươi lăm triệu) đồng.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

- Căn cứ vào các điều 135, 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Buộc các bị cáo Nguyễn Hữu T1 và Võ Quốc T mỗi bị cáo nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm; buộc bị cáo Nguyễn Hữu T1 nộp 1.000.000 (một triệu) đồng và bị cáo Võ Quốc T nộp 1.250.000 (một triệu hai trăm năm mươi ngàn) đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Các bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, tính kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

161
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 176/2021/HS-ST

Số hiệu:176/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 8 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về