Bản án về tội cố ý gây thương tích số 17/2024/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH BẢO, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 17/2024/HS-ST NGÀY 26/03/2024 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 26 tháng 3 năm 2024, tại điểm cầu trung tâm (Trụ sở Toà án nhân dân huyện V, thành phố H) và điểm cầu thành phần (Trại tạm giam Công an thành phố H), xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 13/2024/TLST-HS ngày 01 tháng 3 năm 2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 13/2024/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 3 năm 2024, đối với bị cáo:

Phạm Danh Th, sinh ngày 16/12/1986 tại H. Nơi cư trú: Thôn TrH, xã HH, huyện VB, thành phố H; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Danh H và bà Vũ Thị H; có vợ là Nguyễn Thị Q (Đã ly hôn) và có 01 con; tiền án: Có 02 tiền án, Bản án số 222/2017/HS-ST ngày 15/11/2017 của Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, Thành phố Hà Nội xử phạt 12 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, quy định tại khoản 1 Điều 138 của bộ luật Hình sự năm 1999 và phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm, ngày 10/8/2018 Th chấp hành xong hình phạt tù, ngày 09/5/2018 Th đã nộp 200.000 đồng án phí hình sự tại Chi cục thi hành án dân sự huyện V (Chưa được xóa) và Bản án số 19/2019/HS-ST ngày 04/07/2019 của Tòa án nhân dân huyện V, thành phố H xử phạt 24 tháng tù về tội Cố ý gây thương tích, quy định tại khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự năm 2015 và phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm, ngày 21/8/2021 Th chấp hành xong hình phạt tù, ngày 20/09/2019 Th đã nộp 200.000 đồng án phí hình sự tại Chi cục thi hành án dân sự huyện V (Chưa được xóa); tiền sự: Không; nhân thân: Bản án số 54/2010/HS-ST ngày 24/6/2010 của Tòa án nhân dân quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội Cướp giật tài sản, quy định tại khoản 1 Điều 136 của Bộ luật Hình sự năm 1999 và phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm, ngày 17/01/2011 Th chấp hành xong hình phạt tù, ngày 07/9/2010 Th đã nộp 200.000 đồng án phí hình sự tại Chi cục thi hành án dân sự huyện V (Đã được xóa) và Bản án số 04/2012/HSST ngày 13/01/2012 của Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, Thành phố Hà Nội xử phạt 15 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, quy định tại khoản 1 Điều 138 của Bộ luật Hình sự năm 1999 và phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm, ngày 16/01/2013 Th chấp hành xong hình phạt tù, ngày 21/3/2012 Th đã nộp 200.000 đồng án phí hình sự tại Chi cục thi hành án dân sự huyện V (Đã được xóa); bị bắt tạm giam từ ngày 06/12/2023 đến nay, có mặt.

- Bị hại: Ông Trần Viết L; nơi cư trú: Thôn Lô Đông, xã Vĩnh Long, huyện V, thành phố H, có mặt.

- Người làm chứng: Ông Vũ Đức Th1, anh Vũ Đức D, đều vắng mặt; bà Vũ Thị H, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Chiều ngày 13/7/2023, tại Thôn TrH, xã HH, huyện VB, thành phố H, Phạm Danh Th đã có hành vi dùng tay trái lấy chiếc mũ cối của ông TrầnViết Lưu đang đội trên đầu đập một nhát vào đỉnh đầu Ông L và dùng chân đá 1- 2 cái vào người Ông L làm Ông L bị thương tích. Sau đó Ông Trần Viết L đến Công an xã Hiệp Hòa, huyện V trình báo sự việc và đi điều trị tại bệnh viện đa khoa huyện V từ ngày 13/7/2023 đến 14/7/2023 chuyển lên bệnh viện Việt Tiệp H điều trị đến ngày 18/7/2023 ra viện.

Quá trình điều tra xác định được: Khoảng 18 giờ ngày 13/7/2023, Ông Trần Viết L, sinh năm 1962, trú tại thôn Lô Đông, xã Vĩnh Long, huyện V (là nhân viên thu ngân của công ty cổ phần môi trường và nước sạch Đại D, có địa chỉ ở thôn Lô Đông, xã Vĩnh Long, huyện V) đến nhà Phạm Danh Th, ở thôn Trúc Hiệp, xã Hiệp Hòa, huyện V để thu tiền nước tháng 5 và tháng 6 năm 2023. Khi Ông L đến nơi đi vào trong khu vực sân gọi Th thì Th đi ra. Ông L bảo Th đóng tiền nước tháng 5, 6 năm 2023 là 68.040 đồng. Th nói với Ông L là ví con Th cầm đi mua thức ăn, không có tiền đóng và bảo Ông L đi vào gặp mẹ Th để thu tiền hoặc để tháng sau đóng ba tháng một thể. Ông L có nói “ Đã 02 tháng không trả được thì 03 tháng sao trả được”. Thấy Ông L nói vậy, Th cho rằng Ông L khinh thường mình liền chửi Ông L và xông đến dùng tay trái đấm một nhát vào mặt Ông L. Bị Th đánh, Ông L bỏ chạy ra phía cổng và hô “Cướp”. Th đã chạy đuổi theo phía sau, tay phải túm vào cổ áo Ông L làm đứt sợi dây chuyền đeo trên cổ Ông L và tay trái lấy chiếc mũ cối Ông L đang đội trên đầu đập một nhát vào đỉnh đầu Ông L, làm Ông L ngã xuống đường. Th tiếp tục dùng chân đá 1-2 cái vào người Ông L. Lúc này có anh Vũ Đức Th1, là hàng xóm gần nhà Th thấy vậy chạy ra can ngăn nên Th không đánh Ông L nữa. Th có nhặt sợi dây chuyền bạc đưa cho anh Th1, anh Th1 đã bỏ vào túi áo ngực của Ông L, còn chiếc mũ cối Th dùng đánh Ông L thì anh Th1 nhặt lên để vào giỏ xe của Ông L. Sau đó Ông L đến Công an xã Hiệp Hòa trình báo sự việc và đi điều trị tại bệnh viện đa khoa huyện V từ ngày 13/7/2023 đến 14/7/2023 chuyển lên bệnh viện Việt Tiệp H điều trị đến ngày 18/7/2023 ra viện.

Tại bản Kết luận giám định số 580/2023/KLTTCT-TTPYHP ngày 22/8/2023 của Trung tâm pháp y H kết luận: “Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của Trần Viết Lưu – sinh năm 1962 tại thời điểm giám định là 03%, trong đó: Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do sẹo vết thương vùng đỉnh đầu gây nên là 02 %; Tỷ lệ tổn thương cơ thể do chấn động não điều trị ổn định, điện não đồ chưa thấy bất thường gây nên là 01%. Vết sưng nề vùng mặt phải, bầm tụ máu mắt phải, xây xước da vùng lưng đã khỏi, không để lại dấu vết, không tính tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể. Các thương tích trên có đặc điểm do vật tày tác động trực tiếp gây nên”.

Tại Văn bản số 266/2023/GĐTH-TTPY ngày 31/10/2023 của Trung tâm pháp y H trả lời về vật tác động và cơ chế tác động gây nên vết thương trên đầu và mặt của Ông L có nêu: “Tổn thương chấn động não của nạn nhân có đặc điểm do vật tày tác động trực tiếp vào vùng mặt gây rách da vùng đỉnh đầu, sưng nề vùng mặt, bầm tụ máu mắt phải và tổn thương chấn động não. Nếu dùng tay đấm vào cùng mắt phải cũng có thể gây nên được tổn thương chấn động nào. Nếu dùng mũ cối đập vào vùng đỉnh đầu của Ông L thì cùng có thể gây nên vết thương vùng đỉnh đầu của Ông L”.

Tại bản Kết luận giám định số 6120/KL-KTHS ngày 20/9/2023 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an kết luận: “Trên chiếc mũ cối gửi giám định có máu của Ông Trần Viết L”.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V và tại phiên toà bị cáo Phạm Danh Th đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Tại bản Cáo trạng số 17/CT-VKS ngày 29/02/2024, Viện kiểm sát nhân dân huyện V đã truy tố bị cáo Phạm Danh Th về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm d khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố như nội dung bản Cáo trạng đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 134 (thuộc trường hợp: “dùng hung khí nguy hiểm”, “có tính chất côn đồ”); điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Phạm Danh Th từ 30 tháng đến 36 tháng tù về tội Cố ý gây thương tích. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu nên không đặt ra để giải quyết. Về vật chứng: Tịch thu tiệu huỷ 01 chiếc mũ cối màu xanh lá cây kích thước 30cm x27cm x 10cm hình thoi, phía đỉnh mũ có dấu vết vỡ bên trong. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo đã suy nghĩ và thấy rằng hành vi của mình là sai trái và vi phạm pháp luật, bị cáo đều xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau.

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện V, thành phố H, của Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện V, thành phố H và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến và khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Phạm Danh Th đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại giai đoạn điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng, kết luận giám định thương tích cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 18 giờ ngày 13/7/2023, tại Thôn TrH, xã HH, huyện VB, thành phố H, Phạm Danh Th đã có hành vi dùng tay trái lấy chiếc mũ cối của Ông Trần Viết L đang đội trên đầu đập một nhát vào đỉnh đầu Ông L và dùng chân đá vào người Ông L làm Ông L bị thương tích. Theo kết luận giám định thương tích của Trung tâm Pháp y H thì tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của Ông Trần Viết L là 3%. Do đó, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại Điều 134 Bộ luật Hình sự.

[3] Về tình tiết định khung hình phạt: Giữa bị cáo và bị hại là Ông Trần Viết L không có mâu thuẫn gì nhưng bị cáo đã dùng mũ cối đập một nhát vào đầu Ông L gây thương tích cho Ông L với tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể là 3%. Mặt khác, trước lần phạm tội này bị cáo có 02 tiền án chưa được xoá, cụ thể: Bản án số 222/2017/HS-ST ngày 15/11/2017 của Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, Thành phố Hà Nội xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” và Bản án số 19/2019/HS-ST ngày 04/07/2019 của Tòa án nhân dân huyện V, thành phố H xử phạt 24 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”, lần phạm tội này là cố ý. Do đó, bị cáo phải chịu tình tiết định khung hình phạt quy định tại điểm d khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự là “Tái phạm nguy hiểm”, thuộc trường hợp “dùng hung khí nguy hiểm” và “có tính chất côn đồ” được quy định tại điểm a, i khoản 1 Điều 134 của Bộ luật Hình sự.

[4] Tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ xâm phạm đến sức khỏe của người khác mà còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự và an toàn xã hội tại địa phương. Vì vậy, cần phải áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc đối với hành vi phạm tội bị cáo, đồng thời là bài học để răn đe và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt, cần cân nhắc áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo để có mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ và hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra cho đúng quy định của pháp luật.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo quy định tại Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

[6] Về nhân thân: Bị cáo có 04 tiền án trong đó có 02 tiền án đã được xoá, cụ thể: Có 02 tiền án, Bản án số 222/2017/HS-ST ngày 15/11/2017 của Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, Thành phố Hà Nội xử phạt 12 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, quy định tại khoản 1 Điều 138 của bộ luật Hình sự năm 1999 và phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm, ngày 10/8/2018 Th chấp hành xong hình phạt tù, ngày 09/5/2018 Th đã nộp 200.000 đồng án phí hình sự tại Chi cục thi hành án dân sự huyện V (Chưa được xóa) và Bản án số 19/2019/HS-ST ngày 04/07/2019 của Tòa án nhân dân huyện V, thành phố H xử phạt 24 tháng tù về tội Cố ý gây thương tích, quy định tại khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự năm 2015 và phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm, ngày 21/8/2021, Th chấp hành xong hình phạt tù, ngày 20/09/2019 Th đã nộp 200.000 đồng án phí hình sự tại Chi cục thi hành án dân sự huyện V (Chưa được xóa); tiền sự: Không; nhân thân: Bản án số 54/2010/HS-ST ngày 24/6/2010 của Tòa án nhân dân quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội Cướp giật tài sản, quy định tại khoản 1 Điều 136 của Bộ luật Hình sự năm 1999 và phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm, ngày 17/01/2011 Th chấp hành xong hình phạt tù, ngày 07/9/2010 Th đã nộp 200.000 đồng án phí hình sự tại Chi cục thi hành án dân sự huyện V (Đã được xóa) và Bản án số 04/2012/HS- ST ngày 13/01/2012 của Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, Thành phố Hà Nội xử phạt 15 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, quy định tại khoản 1 Điều 138 của Bộ luật Hình sự năm 1999 và phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm, ngày 16/01/2013 Th chấp hành xong hình phạt tù, ngày 21/3/2012 Th đã nộp 200.000 đồng án phí hình sự tại Chi cục thi hành án dân sự huyện V (Đã được xóa). Do đó, Hội đồng xét xử đánh giá bị cáo là người có nhân thân xấu.

[7] Về tình tiết giảm nhẹ trách hiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã tự nguyện bồi thường thiệt hại cho bị hại, bị hại có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Do đó, bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[8] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử thấy: Về tội danh, khung hình phạt và điều luật áp dụng mà Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng đối với bị cáo là có căn cứ và cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa tội phạm. Tuy nhiên, mức hình phạt mà Kiểm sát viên đề nghị áp dụng đối với bị cáo là nghiêm khắc.

[9] Về dân sự: Bị hại không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xét.

[10] Về vật chứng: Đối với 01 chiếc mũ cối màu xanh lá cây kích thước 30cm x27cm x 10cm hình thoi, phía đỉnh mũ có dấu vết vỡ bên trong là của Ông Trần Viết L nhưng Ông L không yêu cầu nhận lại và không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu huỷ.

[11] Đối với việc Ông L hô “cướp” và khai ông bị mất sợi dây chuyền bạc. Quá trình điều tra xác định Ông L hô “cướp” mục đích để cho người khác biết ông bị Th đánh chứ Th không có hành vi lấy tài sản gì của Ông L. Sợi dây chuyền của Ông L bị đứt ra rơi xuống đất đã được ông Vũ Đức Th1 cầm cho vào túi áo ngực Ông L, Ông L không biết được sợi dây chuyển đó rơi khi nào, ông cũng không có yêu cầu gì về sợi dây chuyền này. Vì vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Vĩnh bảo xác định Th không có hành vi chiếm đoạt tài sản của Ông L là đúng quy định của pháp luật.

[12] Về quyền kháng cáo bản án sơ thẩm: Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[13] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm d khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố bị cáo Phạm Danh Th phạm tội Cố ý gây thương tích.

Xử phạt bị cáo Phạm Danh Th 24 (Hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn chấp hành án hình phạt tù tính từ ngày 06/12/2023.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu huỷ 01 chiếc mũ cối màu xanh lá cây kích thước 30cm x27cm x 10cm hình thoi, phía đỉnh mũ có dấu vết vỡ bên trong. Toàn bộ vật chứng có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng ngày 04/3/2024 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện V.

3. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và khoản 1 Điều 6; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Phạm Danh Th phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo đối với bản án sơ thẩm: Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại vắng mặt tại phiên toà có quyèn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

10
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 17/2024/HS-ST

Số hiệu:17/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Bảo - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về