Bản án về tội cố ý gây thương tích số 17/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 17/2023/HS-PT NGÀY 01/03/2023 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 01 tháng 3 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Long An xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 03/2023/TLPT-HS ngày 06 tháng 01 năm 2023 đối với bị cáo Bùi Võ Thanh H do có kháng cáo của bị cáo và bị hại đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 155/2022/HS-ST ngày 29 tháng 11 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.

- Bị cáo có kháng cáo, bị kháng cáo: Bùi Võ Thanh H, sinh ngày 15 tháng 11 năm 1998, tại tỉnh Long An; Nơi thường trú: số 648 ấp B, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Long An; Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ văn hóa (học vấn): 10/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Bùi Hoài Ph, sinh năm 1964 và bà Võ Thị Ngọc Th, sinh năm 1975; Có vợ tên Phạm Bạch Khánh L, sinh năm 1996 và 01 người con sinh năm 2018; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giam từ ngày 11 tháng 10 năm 2022 đến ngày 12 tháng 01 năm 2023 được thay thế biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh, có mặt tại phiên tòa.

- B hại: Văn Hữu Ch, sinh năm 1991; Địa chỉ: Ấp 5, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Long An. (có mặt)

- Những người tham gia tố tụng khác không có kháng cáo hoặc không có liên quan đến kháng cáo, kháng nghị không triệu tập:

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Nguyễn Thị G.

- Người làm chứng: Phạm Quốc Kh, Nguyễn Hoàng G, Phùng Hữu C, Trần Quốc D, Nguyễn Vũ A, Nguyễn Thị Kim Tr, Tống Hồng Nh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 12/12/2021, Phùng Hữu C rủ bạn gồm Bùi Võ Thanh H, Phạm Quốc Kh, Trần Quốc D, Đặng Hoàng K, Đỗ Trung C1 về nhà C ngụ tại khu vực 4, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Long An, để uống bia. Đến khoảng 19 giờ cùng ngày cả nhóm đến nhà Phùng Hữu C ngồi vào 02 bàn tròn liền sát nhau đặt trước sân nhà tổ chức uống bia. Lúc này, Phùng Hữu C có gọi điện thoại rủ thêm người bạn tên Nguyễn Vũ A (GI) đến chơi cùng cả nhóm bạn trên. Cùng thời điểm này, Nguyễn Vũ A đang uống bia cùng Nguyễn Hoàng G, Văn Hữu Ch nên Nguyễn Vũ A có rủ Nguyễn Hoàng G và Văn Hữu Ch đến nhà của Phùng Hữu C thì G và Ch đồng ý. Sau đó, G điều khiển xe mô tô của Ch chở Ch; A điều khiển xe ô tô của A chở Lê Thị Thu H1 (vợ A) cùng nhau đến nhà Phùng Hữu C.

Khi đến nhà của Phùng Hữu C thì chỉ có A, G, Ch đi vào nhà C, riêng H1 không vào nhà C mà vẫn ngồi trên xe ô tô. Tại đây, Ch được mời vào ngồi bàn tròn bên trái tính theo hướng từ ngoài đường vào nhà của C, ngồi kế bên trái của Ch trong bàn tròn thứ tự lần lượt là Nguyễn Vũ A, Doãn Hà M, Phạm Quốc Kh; Đỗ Trung C1; Đặng Hoàng K; Trần Quốc D; Lê Ngọc D (H2), Phùng Hữu C; Bùi Võ Thanh H; riêng Nguyễn Hoàng G ngồi kế bên phải của Ch. Sau khi Nguyễn Vũ A uống được 01 lon bia thì cũng đi về trước, những người còn lại tiếp tục uống bia. Trong lúc uống bia, Văn Hữu Ch có nhiều lần mời những người tại đây uống cạn ly bia, nhưng riêng Bùi Võ Thanh H không uống, từ đó Văn Hữu Ch tức giận nên kêu Nguyễn Hoàng G lấy xe mô tô ra về. Khi Nguyễn Hoàng G đang quay đầu xe mô tô hướng ra đường nhựa trước nhà của Phùng Hữu C thì Văn Hữu Ch đi ra đứng sau lung G, cách G 0,8m, cách bàn tiệc 3,5m kêu Phùng Hữu C đi ra nói chuyện, Ch cặp cổ C nói “Thằng chó đeo mắt kính là thằng nào, tao đâm nó được không”. Lúc này, H là người duy nhất có đeo mắt kính trong bàn tiệc nghe được nên H tức giận đi về phía Ch và nói “Mày nói thằng mắt kính nào”. Lúc này, Ch cầm 01 cái ly bằng thủy tinh trên tay đánh H nhưng H né được và H liền dùng tay đánh nhiều cái vào đầu và mặt của Ch. G thấy vậy liền xông vào dùng chân đạp H té về phía bàn tiệc cạnh chỗ H ngồi, rồi bỏ chạy ra ngoài đường nhựa. Khi H té tựa lung vào bàn tiệc (không bị té ngã xuống đất), H liền lấy 01 cái ly bằng thủy tinh, loại ly có quai ở trên bàn, cầm trên tay phải, ném về phía Ch và G nhưng không trúng, Ch xông vào đánh H bằng tay thì H liền lấy 01 cái ly có quai bằng thủy tinh, (kích thước khoảng: cao 12cm, đường kính miệng ly 08cm, đường kính đáy ly 5,8cm) ở trên bàn, cầm trên tay phải đánh 01 cái theo hướng ngang, từ phải sang trái trúng vào vùng mặt của Ch gây thương tích và chảy nhiều máu, làm cho cái ly bị bể, H chỉ còn cầm phần quai ly. H thấy Ch bị chảy máu ở vùng mặt nên không đánh Ch nữa. Sau đó, H quăng phần quai ly trên sân nhà của Phùng Hữu C rồi bỏ đi về nhà. Lúc này, G quay lại đua Văn Hữu Ch đến Bệnh viện đa khoa khu vực H cơ sở 2 sơ cứu, rồi chuyển đến Bệnh viện đa khoa X điều trị vết thương.

Đến ngày 14/12/2021, Văn Hữu Ch có đơn tố cáo yêu cầu xử lý hình sự những người đã có hành vi gây thương tích cho Ch theo quy định pháp luật.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 42/TgT.22-PY ngày 22/02/2022 của Trung tâm pháp y, Sở Y tế tỉnh Long An kết luận:

“1. Dấu hiệu chính qua giám định:

- 01 sẹo vết thương vùng má phải, kích thước 04cm x 0,3cm, lành tốt.

- 01 sẹo vết thương vùng ngang giữa mũi, kích thước 03cm x 0,3cm lành tốt.

- 01 sẹo vết thương vùng má trái, kích thước 2,5cm x 0,2cm, lành tốt.

2. Kết luận:

Căn cứ Thông tư số 22/2019/TT-BYT, ngày 28/8/2019 của Bộ Y tế quy định tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần: Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định của nạn nhân Văn Hữu Ch là 14% (Mười bốn phần trăm).” Trong quá trình điều tra, do Văn Hữu Ch trình bày ngoài vết thương đã được giám định nêu trên thì Văn Hữu Ch còn bị thương tích ở vùng trán, vùng hông trái và cung cấp những đồ vật, tài liệu có liên quan đến vụ án nên ngày 18/01/2022 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đức Hòa đã ra Quyết định trưng cầu giám định bổ sung số 04, để giám định bổ sung tỷ lệ tổn thương cơ thể do vết thương ở vùng trán, vùng hông trái của Văn Hữu Ch gây nên.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích bổ sung số 285/TgT.22- PY ngày 19/10/2022 của Trung tâm pháp y, Sở Y tế tỉnh Long An kết luận:

“1. Dấu hiệu chính qua giám định:

- 01 vết sẹo vùng trán phải, kích thước 01 cm x 0,2cm lành tốt có tỷ lệ tổn thương cơ thể là 03% (Không ba phần trăm). Cơ chế hình thành vết thương khả năng do vật tày có cạnh sắt gây nên.

- Khám hiện tại không phát hiện dấu sung bầm ở lung gần hông trái nên không cho tỷ lệ tổn thương cơ thể.

2. Kết luận:

Căn cứ Thông tu số 22/2019/TT-BYT, ngày 28/8/2019 của Bộ Y tế quy định tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần: Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do thương tích bổ sung gây nên tại thời điểm giám định của nạn nhân Văn Hữu Ch là 03% (Không ba phần trăm).” Tại Công văn số 298/TTPY-GĐTH ngày 20/10/2022 của Trung tâm pháp y, Sở Y tế tỉnh Long An xác định:

“...Tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại hai Bản kết luận nêu trên của bị hại Văn Hữu Ch là 17% (Mười bảy phần trăm)”.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 155/2022/HS-ST ngày 29 tháng 11 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An đã quyết định:

1. Tuyên bố bị cáo Bùi Võ Thanh H phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Căn cứ vào điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự (thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 1 Điều này).

Xử phạt bị cáo Bùi Võ Thanh H 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 11 tháng 10 năm 2022.

Áp dụng khoản 1 và khoản 3 Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tiếp tục tạm giam bị cáo Bùi Võ Thanh H 45 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 29 tháng 11 năm 2022), để đảm bảo thi hành án.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về trách nhiệm dân sự, án phí, quyền và thời hạn kháng cáo đối với những người tham gia tố tụng.

Ngày 30 tháng 11 năm 2022, bị cáo Bùi Võ Thanh H kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 02 tháng 12 năm 2022, bị hại Văn Hữu Ch kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo.

Ngày 13 tháng 02 năm 2023, bị cáo Bùi Võ Thanh H bổ sung kháng cáo xin được hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm, Bị cáo Bùi Võ Thanh H thừa nhận đã thực hành vi đúng như nội dung bản án sơ thẩm và xác định bị Tòa án cấp sơ thẩm xét xử về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự là đúng, không oan. Bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và hưởng án treo.

Bị hại Văn Hữu Ch kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo hưởng án treo.

Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An phát biểu quan điểm giải quyết vụ án như sau:

Về hình thức và thủ tục kháng cáo của bị cáo Bùi Võ Thanh H và bị hại Văn Hữu Ch trong thời gian luật định, những yêu cầu kháng cáo phù hợp với quy định của pháp luật nên Tòa án nhân dân tỉnh Long An thụ lý xét xử vụ án theo thủ tục phúc thẩm là có căn cứ.

Về nội dung: Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp với lời khai của bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm và những chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Bùi Võ Thanh H có đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự nên Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội danh và điều luật như trên là đúng pháp luật, không oan.

Khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo như: Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã tự nguyện bồi thường thiệt hại cho bị hại, chưa có tiền án, tiền sự, vợ bị cáo bị bệnh K tuyến giáp, bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn được chính quyền địa phương xác nhận là các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự và xử phạt bị cáo 02 năm tù là đúng người, đúng tội.

Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo và bị hại kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo hưởng án treo: Nhận thấy, nguyên nhân sự xảy ra sự việc do một phần lỗi của bị hại đã đe dọa và đánh bị cáo trước nhưng bị cáo tránh được sau đó mới gây thương tích cho bị hại. Ngoài ra, tại phiên tòa phúc thẩm, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo hưởng án treo là tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự mà cấp sơ thẩm chưa áp dụng nên cần xem xét cho bị cáo.

Xét thấy, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo hưởng án treo, bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, có nơi cư trú rõ ràng, có nghề nghiệp ổn định đối chiếu với Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15 tháng 05 năm 2018 và Nghị quyết số 01/2022/NQ-HĐTP ngày 15 tháng 4 năm 2022 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, có đủ điều kiện cho bị cáo được hưởng án treo, do đó chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo và bị hại theo hướng giữ nguyên hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo.

Từ những phân tích trên, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355, điểm e khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự, chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo và bị hại, sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 155/2022/HS-ST ngày 29 tháng 11 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.

Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 50, Điều 65 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Bùi Võ Thanh H 02 năm tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 04 năm, tính từ ngày tuyên án phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Kháng cáo của bị cáo Bùi Võ Thanh H và bị hại Văn Hữu Ch trong thời hạn pháp luật quy định, yêu cầu kháng cáo phù hợp với quy định của pháp luật nên Tòa án nhân tỉnh Long An thụ lý xét xử theo thủ tục phúc thẩm là có căn cứ theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Về nội dung: Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm thống nhất với lời khai tại phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 19 giờ ngày 12/12/2021, tại sân nhà Phùng Hữu C tại khu vực 4, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Long An, xuất phát từ việc Văn Hữu Ch có lời nói đe dọa và đánh Bùi Võ Thanh H sau khi uống bia nên Bùi Võ Thanh H có hành vi dùng tay phải cầm hung khí nguy hiểm là 01 cái ly có quai bằng thủy tinh đánh 01 cái theo hướng ngang, từ phải sang trái trúng vào vùng mặt của Văn Hữu Ch. Hậu quả Ch bị thương tích với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 17%.

Hành vi của bị cáo Bùi Võ Thanh H đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại Điều 134 của Bộ luật Hình sự, do bị cáo sử dụng ly thủy tinh là hung khí nguy hiểm gây thương tích cho bị hại với tổng tỷ lệ thương tích là 17% nên Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo theo điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người đúng tội, không oan cho bị cáo.

[3] Khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo như: Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tự nguyện bồi thường thiệt hại cho bị hại, bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, vợ bị cáo bị bệnh K tuyến giáp, bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn được chính quyền địa phương xác nhận là các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự và xử phạt bị cáo 02 năm tù.

[4] Xét kháng cáo của bị cáo và bị hại:

Bị hại Văn Hữu Ch và bị cáo Bùi Võ Thanh H kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo: Xét thấy, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 02 năm tù là tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo.

Bị hại Văn Hữu Ch và bị cáo Bùi Võ Thanh H kháng cáo cho bị cáo được hưởng án treo: Nhận thấy nguyên nhân sự xảy ra sự việc do một phần lỗi của bị hại đã đe dọa và đánh bị cáo trước nhưng bị cáo tránh được sau đó mới gây thương tích cho bị hại. Ngoài ra, tại phiên tòa phúc thẩm, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo hưởng án treo là tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự mà cấp sơ thẩm chưa áp dụng nên cần xem xét cho bị cáo.

Xét thấy, bị cáo phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, bị hại xin giảm nhẹ và cho bị cáo được hưởng án treo, bị cáo có nhân thân tốt, ngoài lần phạm tội này luôn chấp hành đúng chính sách, pháp luật và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân ở nơi cư trú, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, hơn nữa bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, vợ bị bệnh K tuyến giáp, bị hại có một phần lỗi, xét thấy không cần phải bắt bị cáo chấp hành hình phạt tù mà bị cáo có khả năng tự cải tạo, việc cho bị cáo hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội, không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội, bị cáo có đủ điều kiện được hưởng án treo theo Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15 tháng 05 năm 2018 và Nghị quyết số 01/2022/NQ-HĐTP ngày 15 tháng 4 năm 2022 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự.

Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Bùi Võ Thanh H và bị hại Văn Hữu Ch, sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 155/2022/HS-ST ngày 29 tháng 11 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An như đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa.

[5] Về án phí: Bị cáo Bùi Võ Thanh H và bị hại Văn Hữu Ch không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm do kháng cáo được chấp nhận.

[6] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355 và điểm e khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Bùi Võ Thanh H và bị hại Văn Hữu Ch; Sửa một phần Bản án hình sự sơ thẩm số 155/2022/HS-ST ngày 29 tháng 11 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An về hình phạt.

2. Tuyên bố: Bị cáo Bùi Võ Thanh H phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, Điều 50, Điều 65 của Bộ luật Hình sự;

Xử phạt: Bị cáo Bùi Võ Thanh H 02 (hai) năm tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 04 (bốn) năm, tính từ ngày tuyên án phúc thẩm, ngày 01 tháng 3 năm 2023.

Giao bị cáo Bùi Võ Thanh H cho Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện Đ, tỉnh Long An để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Trường hợp người được hưởng án treo phạm tội mới trong thời gian thử thách thì Tòa án quyết định hình phạt đối với tội phạm mới và tổng hợp với hình phạt tù của bản án trước theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật Hình sự.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 135, 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, bị cáo Bùi Võ Thanh H và bị hại Văn Hữu Ch không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

175
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 17/2023/HS-PT

Số hiệu:17/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Long An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/03/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về