TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU
BẢN ÁN 16/2023/HS-PT NGÀY 13/03/2023 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 13 tháng 3 năm 2023, tại trụ sở, Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 13/2023/TLPT-HS ngày 06 tháng 02 năm 2023 đối với bị cáo Nguyễn Hoàng G, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 03/2023/HS-ST ngày 05 tháng 01 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau.
- Bị cáo có kháng cáo:
Họ và tên: Nguyễn Hoàng G, sinh ngày 16/02/1990 tại tỉnh Cà Mau.
Nơi cư trú: Ấp R, xã Lợi An, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: Lớp 8/12; con ông Nguyễn Văn H và bà Nguyễn Thị Á; vợ: Lý Kim N (đã ly hôn); Con: 02 người con.
Tiền án: 01 (Bản án Hình sự phúc thẩm số 33/2021/HS-PT ngày 28/04/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau, xử phạt Nguyễn Hoàng G 01 năm 03 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, chấp hành xong hình phạt và án phí ngày 18/11/2021, chưa được xóa án tích).
Tiền sự: Không.
Về nhân thân:
+ Bản án hình sự sơ thẩm số 02/2020/HS-ST ngày 12/01/2010 bị Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau xử phạt 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 01 năm về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, đã được xóa án tích.
+ Ngày 06/11/2010 bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau khởi tố về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999, đến ngày 17/8/2011 Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau đình chỉ vụ án.
+ Bản án hình sự phúc thẩm số 05/2014/HS-PT ngày 07/01/2014 bị Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau xử phạt 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt ngày 31/8/2015 (được đặc xá), chấp hành xong các quyết định khác, được xóa án tích).
Bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ từ ngày 26/8/2022, tạm giam từ ngày 04/9/2022 đến nay; có mặt.
- Những người tham gia tố tụng khác có kháng cáo hoặc có liên quan đến kháng cáo: Ông Mạc Văn U – Bị hại.
- Bị hại: Ông Mạc Văn U, sinh năm 1973. Nơi cư trú: Ấp R, xã Lợi An, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau; vắng mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Văn B, sinh năm 1960. Nơi cư trú: Ấp R, xã Lợi An, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau;
không triệu tập.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 12 giờ 20 phút ngày 24/8/2022, Nguyễn Hoàng G đến nhà Nguyễn Trung L tại ấp R, xã Lợi An, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau để gặp L. Đến nơi, không gặp được L, chỉ có bà D (mẹ của L); G yêu cầu bà D gọi L về để G nói chuyện về sự việc L nói G trộm gà của L. Lúc này, tay phải của G cầm dao cán vàng (dao Thái Lan) hăm dọa bà D. Thấy vậy, bà D điện thoại trình báo vụ việc cho ông Nguyễn Văn B (Trưởng ấp R); Lúc này, ông B và ông Mạc Văn U (Bí thư Chi bộ ấp R) đang ở nhà ông Nguyễn Minh T (Ba T) do đang đi vận động người dân trong ấp ủng hộ tiền sửa chữa trụ sở ấp. Ông B nhờ Hứa Hoài  chạy xe máy chở ông B đến nhà bà D để nắm sự việc.
Khi đến, Â và ông B còn ngồi trên xe thì G đi đến đưa mũi dao về hướng ông B, G nói: “Mấy thằng mày biến, không phải chuyện của mày, tao cắt cổ mấy thằng mày”. G dùng tay trái nắm cổ áo ông B giật 01 cái rồi buông ra làm đứt cúc (nút) áo phía trên cổ. Thấy vậy, Â chạy xe chở ông B về nhà Â cách nhà bà D khoảng 90 mét, rồi chạy xe đến nhà ông Ba T, kể lại sự việc cho ông Ú nghe. Ông Ú điều khiển xe đến tìm ông B nhưng không thấy ông B thì G từ mé lộ đi đến, tay trái cầm dao cán vàng đưa hướng vào người ông Ú và nói: “Mấy thằng mày đi đâu, mấy thằng mày biến, tao đâm mấy thằng mày”. G dùng tay phải đánh vào bên trai đầu ông Ú một cái. Ông Ú nói: “Tao đâu có làm gì mày đâu mà mày lấy dao chỉ vào mặt tao”, rồi ông Ú điều khiển đến trước nhà Quách Văn N (cặp nhà Â). Thấy G đuổi theo, ông Ú kêu ông B lên xe chạy đi, ông B vừa lên xe ngồi sau ông Ú thì G chạy đến đứng cặp xe. G cầm dao cán vàng đưa lưỡi dao vào ngang trước vùng cổ ông Ú, G nói: “Mấy thằng mày biến, không biến tao cắt cổ hết”. Ông Ú nói: “Tao đi công chuyện, tao đâu có can thiệp chuyện của mày”. Lúc này, Nguyễn Văn K (Công an viên xã Lợi An) và Nguyễn Thanh K (Công an viên ấp Tân Phong, xã Lợi An) đến. Ông K kêu G: “bỏ dao xuống”; G không bỏ dao mà kéo dao ngang vùng cổ ông Ú làm rách da vùng cổ chảy máu và cầm dao đi về phía ông K. Thấy vậy, ông K dùng bình xịt hơi cay xịt vào vùng mặt của G, G bỏ chạy ra bờ vuông và đi đến nhà Dương Văn P (người chạy xe ôm) nhờ P chở đi. Khi đến trước nhà Nguyễn Kim L (ấp R, xã Lợi An) thì Giang xuống xe. Bà L khuyên G đưa dao cho L, nhưng G không đưa mà đi bộ ra hướng cặp nhà Quách Văn K (nhà không có ai) thì lực lượng Công an đến mời Giang về làm việc và thu giữ 01 con dao cán vàng tại khu vườn sau nhà của ông K. Sau khi ông Ú bị thương có Lâm Bích T, Huỳnh Hồng N phụ giúp băng cầm máu cho ông Ú. Ông Ú có đơn yêu cầu xử lý hình sự đối với G.
Kết luận giám định pháp y về thương tích số 164/TgT-22, ngày 26/8/2022 của Trung tâm pháp y tỉnh Cà Mau đối với thương tích của Mạc Văn U: 01 vết rách da vùng cổ trước, kích thước 4,5cm x 0,2cm. Tỷ lệ 02 %. Do vật sắc hoặc vật sắc nhọn gây ra.
Bản án hình sự sơ thẩm số 03/2023/HS-ST ngày 05 tháng 01 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau, quyết định:
Áp dụng Điều 47, điểm a và i khoản 1 Điều 134, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự; Các điều 106, 136, 292, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTV Quốc Hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Hoàng G 01 (một) năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”.
Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.
- Ngày 10 tháng 01 năm 2023, bị cáo Nguyễn Hoàng G có đơn kháng cáo yêu cầu cấp phúc thẩm xem xét lại hồ sơ vụ án và quyết định mức án phù hợp với tội danh của bị cáo.
Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo cho rằng, bị cáo bị oan, bị cáo không có gây thương tích cho ông Ú.
- Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau:
Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự; không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo Nguyễn Hoàng G; giữ nguyên bản án sơ thẩm.
- Bị cáo không có ý kiến tranh luận, chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét lại hồ sơ vụ án, và quyết định mức hình phạt nhẹ để bị cáo sớm về với gia đình.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo thừa nhận: Khoảng 12 giờ 20 phút ngày 24/8/2022 bị cáo có đến nhà Lịnh tìm nhưng không gặp Lịnh, bị cáo có gặp bà D, ông B, ông Ú, anh K, anh K và sau đó gặp anh P và bà L đúng như án sơ thẩm nêu; Bị cáo không có mâu thuẫn gì với những người này. Song, bị cáo cho rằng khi đến nhà L bị cáo không có mang theo dao; trong quá trình gặp và tiếp xúc những người trên trong tay bị cáo không cầm dao; cây dao mà cơ quan điều tra thu được bị cáo không biết gì về cây dao này; Bị cáo không hiểu vì sao bị cáo bị anh K xịt hơi cay vào mặt.
Lời khai của bị hại và những người hiểu biết sự việc phù hợp với nhau; phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường, Biên bản thu giữ vật chứng; phù hợp với vết thương trên người của bị hại Ú và các chứng cứ khác mà cơ quan điều tra đã thu thập được có tại hồ sơ. Có đủ chứng cứ xác định:
Khoảng 12 giờ 20 phút ngày 24/8/2022, ông Nguyễn Văn B (Trưởng ấp R) và ông Mạc Văn U (Bí thư Chi bộ ấp R) trong lúc đang đi vận động người dân góp tiền sửa trụ sở ấp, thì nhận được tin Nguyễn Hoàng G có hành gây rối trật tự tại nhà bà Nguyễn Thị D. Ông B đến để nắm sự việc thì bị G chửi, dùng dao đe dọa, dùng tay nắm cổ áo giật làm đứt cúc áo. Khi ông Ú đến nhà bà D tìm ông B thì bị cáo dùng dao đe dọa, dùng tay đánh ông Ú, ông Ú điều khiển xe chạy đến sân nhà ông N và kêu ông B lên xe đi thì G cầm dao chạy đến đưa sát vào cổ ông Ú. Lúc này, Nguyễn Văn K (Công an viên xã Lợi An) và Nguyễn Thanh K (Công an viên ấp Tân Phong, xã Lợi An) đến. Ông K kêu G “bỏ dao”, G không buôn dao mà kéo dao ngang vùng cổ Ú làm đứt da vùng cổ của ông Ú, gây thương tích; Thương tích của ông Ú được giám định kết luận tỷ lệ 2%.
Hành vi của bị cáo gây thương tích cho ông Ú là thực tế có xảy ra, bị cáo đã xâm phạm đến sức khỏe của người khác trái pháp luật. Ông Mạc Văn U có đơn yêu cầu xử lý hình sự đối với bị cáo nên có đủ cơ sở kết luận: Bị cáo Nguyễn Hoàng G đã dùng hung khí nguy hiểm gây thương tích cho ông Ú. Nguyên nhân dân dẫn đến hành vi phạm tội của bị cáo là do bị cáo cho rằng ông Ú đã cản trở việc làm của bị cáo. Song, thực tế ông Ú và ông B đang đi vận động người dân góp tiền sửa trụ sở ấp, không có liên quan đến hành vi gây rối của bị cáo; ông Ú và ông B cũng không phải là cán bộ đang thi hành công vụ đối với hành vi vi phạm của bị cáo nên cấp sơ thẩm không xử lý bị cáo về tội “Chống người thi hành công vụ” là phù hợp. Tuy nhiên, bị cáo nghĩ ông Ú thi hành công vụ đối với mình nên có lời lẽ xúc phạm và tấn công ông Ú; Mặc khác, giữa bị cáo và ông Ú không có mâu thuẫn với nhau, sự việc xảy ra là do bị cáo chủ động gây sự nên hành vi này án sơ thẩm xem xét có tính chất côn đồ là phù hợp.
Từ những phân tích nêu trên, cho thấy: Cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Nguyễn Hoàng G về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm a và i khoản 1 Điều 134 của Bộ luật Hình sự là có cơ sở, đúng pháp luật, không oan – sai.
[2]. Xét mức hình phạt đối với bị cáo, thấy rằng: Hành vi thực hiện tội phạm của các bị cáo thể hiện sự bất chấp pháp luật, xem thường tính mạng sức khỏe của người khác. Ngoài ra, nhân thân của bị cáo có tiền án và nhiều lần bị Tòa án xử phạt. Án sơ thẩm đã xem xét tất cả các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng cũng như nhân thân của bị cáo để quyết định mức hình phạt đối với bị cáo. Bị cáo kháng cáo nhưng không cung cấp được tình tiết giảm nhẹ mới nào theo pháp luật quy định để làm giảm bớt trách nhiệm hình sự của bị cáo nên Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo về mức hình phạt của bị cáo.
[3]. Do không chấp nhận kháng cáo của bị cáo nên bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.
[4]. Các phần khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực thi hành kể từ khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự; Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo; Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 03/2023/HS-ST ngày 05 tháng 01 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời.
2. Áp dụng điểm a và i khoản 1 Điều 134, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự; Điểm b khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTV Quốc Hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Hoàng G 01 (một) năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”; Thời hạn tù được tính kể từ ngày 26 tháng 8 năm 2022.
Về án phí phúc thẩm: Bị cáo Nguyễn Hoàng G phải chịu 200.000 đồng.
3. Các phần khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực thi hành kể từ khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội cố ý gây thương tích số 16/2023/HS-PT
Số hiệu: | 16/2023/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Cà Mau |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 13/03/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về