Bản án về tội cố ý gây thương tích số 160/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NINH KIU, THÀNH PH CẦN THƠ

BẢN ÁN 160/2023/HS-ST NGÀY 20/09/2023 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 20 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 127/2023/TLST-HS, ngày 25 tháng 7 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 645/2023/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 8 năm 2023 đối với các bị cáo:

1/ Lê Hoài B; Tên gọi khác: Không có; Sinh năm 2000; Nơi sinh: Cần Thơ; Nơi ĐKTT: 108/3 khu V, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Họ tên cha: Lê Hoài H, sinh năm 1981; Họ tên mẹ: Nguyễn Thị Huỳnh N, sinh năm 1981; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: chưa;

Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 14/10/2022. Hiện đang bị giam tại Nhà tạm giữ - Công an quận N. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2/ Ngô Vĩ A; Sinh ngày 10 tháng 11 năm 2005; Nơi sinh: Cần Thơ; Nơi ĐKTT: ấp B, xã G, huyện P, thành phố Cần Thơ; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 11/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Họ tên cha: Ngô Minh S, sinh năm 1984; Họ tên mẹ: Phạm Thí P, sinh năm 1980; Em ruột: 01 người, sinh năm 2020; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: chưa.

Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo: Bà Nguyễn Thị Chúc L - Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước thành phố C. (có mặt)

3/ Nguyễn Tấn L1; Sinh ngày 22 tháng 3 năm 2005; Nơi sinh: Bến Tre; Nơi ĐKTT: 358/3 khu V, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 11/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Họ tên cha: Ngô Thanh H1, sinh năm 1972; Họ tên mẹ: Nguyễn Thị P1, sinh năm 1971; Anh ruột: 01 người; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: chưa.

Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

4/ Nguyễn Quốc K; Sinh ngày 14 tháng 5 năm 2005; Nơi sinh: Cần Thơ; Nơi ĐKTT: ấp N, xã N, huyện P, thành phố Cần Thơ; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 09/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Họ tên cha: Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1971; Họ tên mẹ: Nguyễn Thị P2, sinh năm 1972; Chị ruột: 01 người; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: chưa.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Hiện đang bị tạm giam trong vụ án khác tại Nhà tạm giữ - Công an huyện P, thành phố Cần Thơ. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

5/ Trần Thành Đ1; Sinh ngày 10 tháng 10 năm 2005; Nơi sinh: Cà Mau; Nơi ĐKTT: 58/18 đường Q, khóm B, phường E, thành phố C, tỉnh Cà Mau; Chỗ ở: 2 đường T, khu V, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ; Nghề nghiệp: làm thuê (rửa xe); Trình độ học vấn: 09/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Họ tên cha: Phạm Văn B1; Họ tên mẹ: Trần Thị Bé H2; Em ruột: 01 người; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: chưa.

Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa của bị cáo Trần Thành Đ1: ông Nguyễn Hoàng D - Trợ giúp viên Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước thành phố C. (có mặt)

6/ Nguyễn Hoàng Nhật A1; Sinh ngày 06 tháng 12 năm 2005; Nơi sinh: Cần Thơ; Nơi ĐKTT: ấp N, xã N, huyện P, thành phố Cần Thơ; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 8/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Họ tên cha: Nguyễn Văn Đ2; Họ tên mẹ: Trần Thị E; A, em ruột: 02 người; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Chưa;

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Hiện đang bị tạm giam trong vụ án khác tại Nhà tạm giữ - Công an huyện P, thành phố Cần Thơ. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa của bị cáo Nguyễn Hoàng Nhật A1 : Bà Lê Thị T - Trợ giúp viên Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước thành phố C. (có mặt)

7/ Danh La Đạt T1; Sinh ngày 10 tháng 3 năm 2006; Nơi sinh: Cần Thơ; Nơi ĐKTT: ấp M, xã M, huyện P, thành phố Cần Thơ; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 10/12; Dân tộc: Khmer; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Họ tên cha: Danh C, sinh năm 1970; Họ tên mẹ: La Thị R, sinh năm 1973; Anh ruột: 01 người; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: chưa.

Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa của bị cáo Danh La Đạt T1 : Bà Nguyễn Lý Xuân T2 - Trợ giúp viên Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước thành phố C. (có mặt)

8/ Nguyễn Phước H3; Sinh ngày 01 tháng 11 năm 2005; Nơi sinh: Cần Thơ; Nơi ĐKTT: 429A khu vực 1, phường B, quận C, thành phố Cần Thơ; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 11/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Họ tên cha: Nguyễn Văn Nl; Họ tên mẹ: Nguyễn Thị T3; A, chị, em ruột: 04 người; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: chưa.

Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa của bị cáo Nguvễn Phước H3: Bà Nguyễn Thị Chúc L - Trợ giúp viên Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước thành phố C. (có mặt)

9/ Hồ Đức H4; Sinh ngày 26 tháng 3 năm 2004; Nơi sinh: Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi ĐKTT: ấp N, xã N, huyện P, thành phố Cần Thơ; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 5/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Họ tên cha: Hồ Nguyễn Tấn Đ3; Họ tên mẹ: Lê Thị T4; A, em ruột: 02 người; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: chưa.

Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

10/ Hồ Quốc D1; Sinh ngày 07 tháng 10 năm 2003; Nơi sinh: Hậu Giang; Nơi ĐKTT: ấp T, xã T, huyện C, tỉnh Hậu Giang; Nghề nghiệp: Công nhân; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Họ tên cha: Hồ Quốc S1; Họ tên mẹ: Huỳnh Thị L2; Chị một: 01 người; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: chưa.

Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

11/ Võ Thanh M; Sinh ngày 25 tháng 01 năm 2006; Nơi sinh: Đồng Tháp; Nơi ĐKTT: 1 N, phường T, quận N, thành phố Cần Thơ; Nghề nghiệp: Học sinh; Trình độ học vấn: 10/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Họ tên cha: Nguyễn Thanh T5; Họ tên mẹ: Võ Ngọc D2; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: chưa.

Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa của bị cáo Võ Thanh M: Bà Lê Thị T - Trợ giúp viên Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước thành phố C. (có mặt)

12/Nguyễn Văn V; Sinh ngày 28 tháng 10 năm 2005; Nơi sinh: Cần Thơ; Nơi ĐKTT: ấp M, xã M, huyện P, thành phố Cần Thơ; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 5/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Họ tên cha: Nguyễn Văn Đ4; Họ tên mẹ: Lê Thị Ú; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: chưa.

Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa của bị cáo Nguyễn Văn V: Bà Nguyễn Thị D3 - Trợ giúp viên Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước thành phố C. (Có mặt)

* Bị hại: Huỳnh Phước T6, sinh năm 2005. (Có mặt) Địa chỉ: Ấp M, xã M, huyện P, thành phố Cần Thơ.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/ Đỗ Thị H5, sinh năm 1988 Địa chỉ: số E T, phường H, quận N, thành phố Cần Thơ.

2/ Nguyễn Phạm Hoàng P3, sinh năm 2006 Địa chỉ: Số C T, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ.

3/ Trần Thành L3, sinh năm 2007 Địa chỉ: số B đường T, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ.

4/ Phạm Minh H6, sinh năm 2008 Địa chỉ: Số C N, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ.

5/ La Tuấn A2, sinh năm 2004 Địa chỉ: Ấp M, xã M, huyện P, thành phố Cần Thơ.

6/ Nguyễn Từ Thanh V1, sinh năm 2005 Địa chỉ: Số B khu vực Y, phường T, quận C, thành phố Cần Thơ.

7/ Ông Ngô Minh S Địa chỉ: ấp B, xã G, huyện P, thành phố Cần Thơ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào ngày 30/5/2022, Huỳnh Phước T6 và Trang Trọng H7 đi dự tổng kết tại Trường trung học phổ thông G, huyện P thì xảy ra cự cãi đánh nhau với Ngô Vĩ A, sau đó A để lại sự việc cho Nguyễn Quốc K, Nguyễn Tấn L1 biết và hẹn nhóm của Huỳnh Phước T6 để đánh nhau, hai nhóm hẹn gặp nhau vào ngày 01/6/2022 đường T để giải quyết mâu thuẫn.

Để chuẩn bị cho việc đánh nhau, nhóm của Ngô Vĩ A, Nguyễn Quốc K, Nguyễn Tấn L1 rủ thêm Trần Thành Đ1, Hồ Đức H4, Nguyễn Phạm Hoàng P3, Nguyễn Hoàng Nhật A1, Danh La Đạt T1, Nguyễn Văn V, Nguyễn Từ Thanh V1, Hồ Quốc D1, Võ Thanh M, La Tuấn A2, Lê Hoài B, Trần Thành L3, Phạm Minh H6 và Nguyễn Phước H3, cả nhóm hẹn gặp nhau tại quán cà phê Y trên đường T Khi đến quán Y, H6 mang theo 01 ống tuýp sắt có quấn băng keo màu đen, Đ1, P3 và B2 đều mang theo dao tự chế. Sau khi xác định nhóm của T6 khoảng 10 người đang ở quán C1, địa chỉ 1 tổ A, khu V, phường A thì nhóm của A đi bằng nhiều xe mô tô đến quán cà phê M1 để đánh nhóm của T6. Khi đến quán C1 thì A, K, H6, Đ1, P3, Nhật A1, Tấn L1, T1, B, H3 và H4 đi vào quán rượt đuổi nhóm của T6, trong đó K cầm nón bảo hiểm đánh T6, còn B, P3, Đ1 cầm dao tự chế chém T6; H6 cầm ống tuýp sắt, H4, H3, Tấn L1 cầm ghế, Nhật A1, T1 và A đánh T6 bằng tay. Khi thấy T6 bỏ chạy và nhiều người trong quán can ngăn, cả nhóm đi ra khỏi quán, K chở D1, M chở Đ1, V chở A cùng những đối tượng khác điều khiển xe đi về.

Huỳnh Phước T6 được đưa vào Bệnh viện Đ5 cấp cứu, điều trị đến ngày 04/6/2023 xuất viện, sau đó bị hại có đơn yêu cầu khởi tố vụ án hình sự. Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận N đã ra quyết định trưng cầu giám định thương tích đối với bị hại Huỳnh Phước T6.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 154/TgT ngày 25/6/2022 của Trung tâm pháp y thuộc Sở Y tế thành phố C kết luận:

1. Dấu hiệu chính qua giám định:

- Vết thương sau vai phải, hông lưng phải đã được phẫu thuật thám sát, khâu vết thương và điều trị nội khoa. Hiện tại các vết thương đã lành sẹo, không ảnh hưởng chức năng.

- Chấn thương gây sây sát da vùng ngực đã được điều trị. Hiện tại đã lành, không còn vết tích trên da, không ảnh hưởng chức năng.

2. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 4%.

3. Cơ chế hình thành vết thương: Thương tích của Huỳnh Phước T6 phù hợp với cơ chế do vật sắc gây ra (Bút lục: 177-178).

Quá trình điều tra, các bị cáo Ngô Vĩ A, Lê Hoài B, Nguyễn Quốc K, Nguyễn Tấn L1, Trần Thành Đ1, Hồ Đức H4, Nguyễn Hoàng Nhật A1, Danh La Đ, Nguyễn Phước H3, Nguyễn Văn V, Hồ Quốc D1 và Võ Thanh M đều thừa nhận hành vi gây thương tích cho bị hại Huỳnh Phước T6 vào ngày 30/5/2022 tại quán C1. Trong đó 09 bị cáo Ngô Vĩ A,Lê Hoài B, Nguyễn Quốc K, Nguyễn Tấn L1, Trần Thành Đ1, Hồ Đức H4, Nguyễn Hoàng Nhật A1, Danh La Đạt T1 và Nguyễn Phước H3 trực tiếp dùng hung khí gây thương tích đối với bị hại; 03 bị cáo Nguyễn Văn V, Hồ Quốc D1 và Võ Thanh M không trực tiếp gây thương tích cho bị hại nhưng ở bên ngoài trông giữ xe và chở đồng bọn tẩu thoát sau khi gây án.

Đối với Phạm Minh H6, Nguyễn Phạm Hoàng P3 và Trần Thành L3, đều mang hung khí tham gia đánh nhóm bị hại Huỳnh Phước T6 cùng các bị cáo trên. Tuy nhiên, thời điểm thực hiện hành vi phạm tội Phạm Minh Hiển chỉ 13 tuổi 05 tháng 20 ngày; Nguyễn Phạm Hoàng P3 15 tuổi 11 tháng 08 ngày; Trần Thành L3 14 tuổi 10 tháng 16 ngày nên chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự đối với tội phạm quy định tại khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự.

Đối với Nguyễn Từ Thanh V1 khai khi được rủ cùng đi gây thương tích, V1 không đồng ý nhưng vẫn điều khiển xe mô tô đi một mình, không chở ai và đứng bên ngoài xem; La Tuấn A2 được Danh L4 Đạt Thành nhờ chở T1 đến trước quán C1, Tuấn A2 không tham gia bàn bạc, giúp sức cho các bị cáo. Do đó, Cơ quan điều tra chưa đủ cơ sở xử lý hình sự đối với Nguyễn Từ Thanh V1 và La Tuấn A2.

Cơ quan điều tra đã thu giữ những tang vật sau:

- 01 cây kiếm tự chế bằng kim loại, dài 50cm là hung khí P3 dùng để đánh nhau với nhóm của T6 do Trần Thành L3 giao nộp.

- 02 cây dao tự chế bằng kim loại, dài 40cm, của Trang Trọng H7, do Trần Minh K1 (nhóm của T6) giao nộp.

- 01 gậy ba khúc của Huỳnh Phước T6 do Nguyễn Huy K2 giao nộp.

Đối với những hung khí còn lại như dao tự chế, ống tuýp sắt các bị cáo đã ném bỏ sau khi gây thương tích cho bị hại nên không thu hồi được.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Huỳnh Phước T6 yêu cầu được bồi thường thiệt hại nhưng đến nay vẫn chưa đưa ra yêu cầu cụ thể. Đối với thiệt hại về tài sản của quán C1, chị Đỗ Thị H5 (chủ quán) yêu cầu bồi thường số tiền 3.000.000 đồng (bút lục: 342-343).

Quá trình điều tra, các bị cáo đều thành khẩn khai báo, thừa nhận hành vi phạm tội. Các bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Đồng thời, các bị cáo chưa có tiền án, tiền sự.

Tại Cáo trạng số 149/CT-VKS ngày 24 tháng 7 năm 2023, Viện Kiểm sát nhân dân quận Ninh Kiều đã truy tố các bị cáo Lê Hoài B, Ngô Vĩ A, Nguyễn Tấn L1, Nguyễn Quốc K, Trần Thành Đ1, Nguyễn Hoàng Nhật A1, Danh La Đạt T1, Nguyễn Phước H3, Hồ Đức H4, Hồ Quốc D1, Võ Thanh M và Nguyễn Văn V về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm a, i khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

Kiếm sát viên giữ quyền công t tại phiên tòa trình bày: Giữ nguyên quan điểm Cáo trạng truy tố, đồng thời phân tích tính chất, mức độ tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, vai trò và nhân thân đối với bị cáo. Các bị cáo thành khẩn khai báo, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, ghi nhận việc các bị cáo đồng ý bồi thường số tiền 30.000.000 đồng khắc phục tổn hại về sức khỏe cho bị hại; bồi thường cho quán C1 về tài sản số tiền 3.000.000 đồng, tại phiên tòa bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ tại điểm b, i, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự;

1. Về trách nhiệm hình sự:

- Áp dụng điểm a, i, khoản 1, Điều 134; Điểm b, i, s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự: đề nghị xử phạt bị cáo Lê Hoài B mức án 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù (bị cáo bị bắt tạm giam từ 14/10/2022) - Áp dụng điểm a, i, khoản 1, Điều 134; Điểm b, i, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38, Điều 91, khoản 1 Điều 101 Bộ luật Hình sự:

+ Xử phạt: bị cáo Ngô Vĩ A, Trần Thành Đ1 mức án 01 năm 03 tháng đến 01 năm 09 tháng tù.

+ Xử phạt: bị cáo Nguyễn Quốc K, Nguvễn Tấn L1 mức án 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.

+ Xử phạt: bị cáo Nguyễn Hoàng Nhật A1 mức án 09 tháng đến 01 năm tù.

- Áp dụng điểm a, i, khoản 1, Điều 134; Điểm b, i, s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 38, Điều 65 Bộ luật Hình sự:

+ Xử phạt: bị cáo Hồ Đức H4 mức án 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo + Xử phạt: bị cáo Hồ Quốc D1 mức án 08 tháng đến 10 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo - Áp dụng điểm a, i, khoản 1, Điều 134; Điểm b, i, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38, Điều 65, Điều 91, khoản 1 Điều 101 Bộ luật Hình sự:

+ Xử phạt: bị cáo Danh La Đ, Nguyễn Phước H3 mức án 09 tháng đến 01 năm tù, nhưng cho hưởng án treo.

+ Xử phạt: bị cáo Nguvễn Văn V, Võ Thanh M mức án 06 tháng đến 09 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo.

2. Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự 2015, Khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.

Tịch thu tiêu hủy: 01 cây kiếm tự chế bằng kim loại, dài 50cm; 02 cây dao tự chế bằng kim loại, dài 40cm; 01 gậy ba khúc.

3. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại yêu cầu bồi thường 30.000.000 đồng, người liên quan chị Đỗ Thị H5 yêu cầu bồi thường 3.000.000 đồng, tổng cộng 33.000.000 đồng. Bị cáo A đã bồi thường trước 4.000.000 đồng, đề nghị trả số tiền 4.000.000 đồng cho bị hại và người liên quan theo tỷ lệ tương ứng. Số tiền còn lại ghi nhận các bị cáo liên đới bồi thường.

Người bào cha cho bị cáo Nguyễn Hoành Nhật A3, Võ Thanh M: Bà Lê Thị T - Trợ giúp viên Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước thành phố C trình bày: Do bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, trình độ nhận thức thấp, đã đồng ý bồi thường về trách nhiệm dân sự cho bị hại, phía bị hại có ý kiến xin giảm nhẹ hình phạt, xin được áp dụng mức hình phạt khởi điểm mà Viện kiểm sát đề nghị.

Người bào chữa cho bị cáo Danh La Đ: Bà Nguyễn Lý Xuân T2 - Trợ giúp viên Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước thành phố C trình bày trình bày: Thống nhất quan điểm của Viện kiểm sát đã truy tố, đề nghị áp dụng điểm b, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 65, Điều 90 và Điều 101 Bộ luật Hình sự cho bị cáo T1 được hưởng 09 tháng tù treo.

Người bào chữa cho bị cáo Trần Thành Đ1: ông Nguyễn Hoàng D - Trợ giúp viên Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước thành phố C trình bày trình bày: Thống nhất với quan điểm truy tố của Viện kiểm sát, tuy nhiên việc phân hóa tội phạm mà Đại diện Viện kiểm sát phân tích là chưa khách quan, bị cáo không tác động gì đến bị hại, hành vi của bị cáo chấm dứt khi hung khí bị đánh rơi. Bị cáo thành khẩn khai báo, thừa nhận hành vi phạm tội, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, có nơi cư trú rõ ràng, phía bị hại có ý kiến xin giảm nhẹ hình phạt đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng án treo.

Người bào chữa của bị cáo Ngô Vĩ A và bị cáo Nguyễn Phước H3: Bà Nguyễn Thị Chúc L - Trợ giúp viên Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước thành phố C trình bày: Thống nhất với đề nghị của Viện kiểm sát, ngoài ra đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng thêm khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Đối với bị cáo Nguyễn Phước H3 với mức hình phạt 09 tháng tù cho được hưởng án treo, đối với bị cáo Ngô Vĩ A xin được tuyên dưới mức hình phạt mà Viện kiểm sát đề nghị.

Người bào chữa của bị cáo Nguyễn Văn V: Bà Nguyễn Thị D3 - Trợ giúp viên Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước thành phố C trình bày: Thống nhất với đề nghị của Viện kiểm sát, xin được giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo.

Các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng truy tố, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Tại lời nói sau cùng, các bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Ninh Kiều, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tính chất mức độ, hành vi phạm tội của các bị cáo:

Các bị cáo thừa nhận ngoài bị cáo Ngô Vĩ A các bị cáo khác không có mâu thuẫn với bị hại Huỳnh Phước T6 nhưng các bị cáo Nguyễn Tấn L1, Nguyễn Quốc K đã rủ rê nhiều người khác, dùng dao tự chế - hung khí nguy hiểm, nón bảo hiểm và tay để chém, đánh gây thương tích với tỷ lệ 04% đối với bị hại; 03 bị cáo Hồ Quốc D1, Võ Thanh M và Nguyễn Văn V mặc dù không trực tiếp gây thương tích cho bị hại nhưng đã đồng ý với đề nghị của bị cáo L1 đi đánh nhau và thể hiện sự giúp sức là chở, giữ xe cho các bị cáo trên vào bên trong quán M1 gây thương tích cho bị hại sau đó cùng tẩu thoát, mang hung khí ném bỏ, do đó các bị cáo phải chịu trách nhiệm với vai trò đồng phạm về tội cố ý gây thương tích.

Tại phiên tòa, các bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi của mình như nội dung Cáo trạng đã truy tố. Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của các bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân quận Ninh Kiều truy tố các bị cáo về “Cố ý gây thương tích” theo điểm a, i khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng với quy định của pháp luật.

Các bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi phạm tội của mình là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn cố ý thực hiện. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ, đồng thời gây mất an ninh, trật tự tại địa phương.

[3] Vai trò của các bị cáo trong vụ án: Trong vụ án này nổi trội nhất là vai trò của bị cáo A là người có mâu thuẫn với bị hại, bị cáo K, L1 có vai trò rủ rê tập hợp nhiều bị cáo khác cùng tham gia, bị cáo B là người cầm dao chém gây thương tích chủ yếu cho bị hại, các bị cáo khác dù có hoặc không trực tiếp đánh bị hại thì cũng có vai trò đồng phạm giúp sức trong việc chuẩn bị hung khí, cảnh giới, giữ xe, bỏ trốn, tạo sức mạnh tinh thần để các bị cáo khác thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, mỗi bị cáo sẽ có mức hình phạt tương xứng với hành vi và vai trò các bị cáo.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ:

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo có thái độ ăn năn hối cải, nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Các bị cáo thống nhất liên đới chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho phía bị hại Huỳnh Phước T6 và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Đỗ Thị H5. Do đó, các bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Ngoài ra, xét thấy các bị cáo trong vụ án đều thuộc trường hợp phạm tội lần đầu và ít nghiêm trọng do đó Hội đồng xét xử áp dụng điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự cho các bị cáo.

Tại phiên tòa bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo, riêng bị cáo T1 có đơn xin xác nhận hoàn cảnh khó khăn, cha bị cáo được địa phương khen thưởng nên các bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Đối với bị cáo Ngồ Vĩ A, Trần Thành Đ1, Nguyễn Quốc K, Nguyễn Tấn L1, Nguyễn Hoàng Nhật AI, Danh La Đạt T1, Nguyễn Phước H3, Võ Thanh M, Nguyễn Văn V tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội chưa đủ 18 tuổi nên khi xem xét trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 90, Điều 91, Điều 101 Bộ luật hình sự xem xét mức hình phạt với các bị cáo.

Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Phía bị hại Huỳnh Phước T6 có yêu cầu bồi thường với số tiền 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng) đối với các bị cáo. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Đỗ Thị H5 bị thiệt hại về tài sản tại nơi xảy ra sự việc có yêu cầu bồi thường với số tiền 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng).

Ghi nhận sự tự nguyện các bị cáo Lê Hoài B. Ngô Vĩ A, Nguyễn Tấn L1, Nguyễn Quốc K, Trần Thành Đ1, Nguyễn Hoàng Nhật A1, Danh La Đạt T1, Nguyễn Phước H3, Hồ Đức H4, Hồ Quốc D1, Võ Thanh M và Nguyễn Văn V có trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại cho bị hại Huỳnh Phước T6 với số tiền 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng) (tương đương 2.500.000 đồng/bị cáo) và bồi thường cho người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Đỗ Thị H5 số tiền là 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng) (tương đương 250.000 đồng/bị cáo). Mỗi bị cáo phải chịu số tiền tương đương 2.750.000 đồng (Hai triệu bảy trăm năm mươi nghìn đồng).

Bị cáo Ngô Vĩ A đã tự nguyện nộp bồi thường với số tiền 4.000.000 đồng (Bốn triệu đồng) theo biên lai số 0001920 ngày 06/9/2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Ninh Kiều. Người bị hại Huỳnh Phước T6 và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Đỗ Thị H5 được liên hệ Chi cục Thi hành án Dân sự quận Ninh Kiều nhận tiền bồi thường, bị hại T6 được nhận 3.600.000 đồng, bà Đỗ Thị H5 được nhận 400.000 đồng;

Tuy nhiên, để đảm bảo quyền lợi cho bị hại Huỳnh Phước T6, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Đỗ Thị H5 thì cần buộc các bị cáo chưa thành niên gồm: Ngô Vĩ A, Trần Thành Đ1, Nguyễn Hoàng Nhật A1, Danh La Đạt T1, Nguyễn Phước H3, Võ Thanh M và Nguyễn Văn V (nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình - theo quy định tại Điều 585 Bộ luật Dân sự 2015), cùng các bị cáo Lê Hoài B, Nguyễn Tấn L1, Nguyễn Quốc K, Hồ Đức H4 và Hồ Quốc D1 có trách nhiệm liên đới bồi thường cho bị hại Huỳnh Phước T6 và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Đỗ Thị H5. (Bị cáo nào thực hiện nhiều hơn nghĩa vụ có quyền yêu cầu bị cáo hoặc cha mẹ của bị cáo chưa thành niên để trả lại số tiền đã thực hiện thay).

[6] Trên cơ sở xem xét toàn diện nội dung vụ án, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, vai trò và nhân thân bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy cần có một hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian, tạo điều kiện đề bị cáo sửa chữa lỗi lầm trở thành người có ích cho xã hội sau này.

Đồng thời, để thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật và áp dụng nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội với các bị cáo có vai trò đồng phạm giúp sức không đáng kể Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng án treo cũng đủ tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung có hiệu quả, mà không ảnh hưởng xấu đến cuộc đấu tranh, phòng chống tội phạm này trong tình hình hiện nay.

[7] Về xử lý vật chứng: Thống nhất theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

[8] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Các bị cáo Lê Hoài B, Ngô Vĩ A, Nguyễn Tấn L1, Nguyễn Quốc K, Trần Thành Đ1, Nguyễn Hoàng Nhật A1, Danh La Đạt T1, Nguyễn Phước H3, Hồ Đức H4, Hồ Quốc D1, Võ Thanh M và Nguyễn Văn V phạm tội “Cố ý gây thương tích” - Căn cứ: điểm a, i khoản 1 Điều 134, điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 17 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Lê Hoài B 01 (Một) năm 06 (S2) tháng tù. Thời gian chấp hành án tính từ ngày 14/10/2022.

- Căn cứ: điểm a, i khoản 1 Điều 134, điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 17, Điều 90, Điều 91, Điều 101 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Ngô Vĩ A 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

- Căn cứ: điểm a, i khoản 1 Điều 134, điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 17, Điều 90, Điều 91, Điều 101 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Tấn L1 01 (Một) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

- Căn cứ: điểm a, i khoản 1 Điều 134, điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 17, Điều 90, Điều 91, Điều 101 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt: bị cáo Nguyễn Quốc K 01 (Một) năm tù. Thời gian chấp hành án tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

- Căn cứ: điểm a, i khoản 1 Điều 134, điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 17, Điều 90, Điều 91, Điều 101 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Trần Thành Đ1 01 năm (Một năm) 03 tháng (Ba tháng) tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

- Căn cứ: điểm a, i khoản 1 Điều 134, điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 17, Điều 90, Điều 91, Điều 101 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Hoàng Nhật A1 09 (Chín) tháng tù. Thời gian chấp hành án tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

- Căn cứ: Điểm a, i khoản 1 Điều 134, điểm b, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 65, Điều 17, Điều 90, Điều 91, Điều 101 Bộ luật hình sự năm 2015;

Xử phạt bị cáo Danh La Đ 09 tháng (Chín tháng) tù nhung cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 tháng (Mười tám tháng) kể từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo cho Ủy ban Nhân dân xã M, huyện P, thành phố Cần Thơ quản lý, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

- Căn cứ: Điểm a, i khoản 1 Điều 134, điểm b, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 65, Điều 17, Điều 90, Điều 91, Điều 101 Bộ luật hình sự năm 2015;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Phước H3 09 tháng (Chín tháng) tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 tháng (Mười tám tháng) kể từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo cho Ủy ban Nhân dân phường B, quận C, thành phố Cần Thơ quản lý, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

- Căn cứ: Điểm a, i khoản 1 Điều 134, điểm b, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 65, Điều 17 Bộ luật Hình sự năm 2015;

Xử phạt bị cáo Hồ Đức H4 09 tháng (Chỉn tháng) tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 tháng (Mười tám tháng) kể từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo cho Ủy ban Nhân dân xã N, huyện P, thành phố Cần Thơ quản lý, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

- Căn cứ: Điểm a, i khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự, điểm b, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 65 và Điều 17 Bộ luật Hình sự năm 2015;

Xử phạt bị cáo Hồ Quốc D1 08 tháng (T7 tháng) tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 16 tháng (Mười sáu tháng) kể từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo cho Ủy ban Nhân dân xã T, huyện C, tỉnh Hậu Giang quản lý, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

- Căn cứ: Điểm a, i khoản 1 Điều 134, điềm b, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 65, Điều 17, Điều 90, Điều 91, Điều 101 Bộ luật Hình sự năm 2015;

Xử phạt bị cáo Võ Thanh M 06 tháng (Sáu tháng) tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng (Mười hai tháng) kể từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo cho Ủy ban Nhân dân phường T, quận N, thành phố Cần Thơ quản lý, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

- Căn cứ: Điểm a, i khoản 1 Điều 134, điểm b, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 65, Điều 90, Điều 91, Điều 101 Bộ luật hình sự năm 2015;

Xử phạt: bị cáo Nguyễn Văn V 06 tháng (Sáu tháng) tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng (Mười hai tháng) kể từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo cho Ủy ban Nhân dân xã M, huyện P, thành phố Cần Thơ quản lý, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự 2015 và khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015;

- Tịch thu tiêu hủy:

+ 01 (Một) cây kiếm tự chế bằng kim loại, dài 50cm;

+ 02 (Hai) cây dao tự chế bằng kim loại, dài 40cm;

+ 01 (Một) gậy ba khúc.

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 26/7/2023 tại Chi cục Thi hành án Dân sự quận Ninh Kiều).

3. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 584, Điều 585 và Điều 589 Bộ luật Dân sự năm 2015;

Ghi nhận sự tự nguyện của các bị cáo Ngô Vĩ A, Trần Thành Đ1, Nguyễn Hoàng Nhật A1, Danh La Đạt T1,Nguyễn Phước H3, Võ Thanh M và Nguyễn Văn V (Do các bị cáo chưa thành niên nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình - theo quy định tại Điều 585 Bộ luật Dân sự 2015), cùng các bị cáo Lê Hoài B, Nguyễn Tấn L1, Nguyễn Quốc K, Hồ Đức H4 và Hồ Quốc D1 có trách nhiệm liên đới bồi thường cho bị hại Huỳnh Phước T6 số tiền 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng) và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Đỗ Thị H5 số tiền 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng). (Bị cáo nào thực hiện nhiều hơn nghĩa vụ có quyền yêu cầu bị cáo hoặc cha mẹ của bị cáo chưa thành niên để trả lại số tiền đã thực hiện thay).

Bị hại Huỳnh Phước T6 và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Đỗ Thị H5 được liên hệ Chi cục Thi hành án Dân sự quận Ninh Kiều nhận tiền bồi thường, bị hại T6 được nhận 3.600.000 đồng (Ba triệu sáu trăm nghìn đồng), bà Đỗ Thị H5 được nhận 400.000 đồng (Bốn trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0001920 ngày 06/9/2023 tại Chi cục Thi hành án Dân sự quận Ninh Kiều. Các bị cáo còn phải bồi thường cho bị hại Huỳnh Phước T6 số tiền 26.000.000 đồng (Hai mươi sáu triệu đồng), bồi thường cho người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Đỗ Thị H5 số tiền 2.600.000 đồng (Hai triệu sáu trăm nghìn đồng).

4. Về án phí: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự được quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

59
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 160/2023/HS-ST

Số hiệu:160/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ninh Kiều - Cần Thơ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:20/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về