TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LONG AN
BẢN ÁN 152/2022/HS-PT NGÀY 18/08/2022 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 18 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Long An xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý 97/2022/TLPT-HS ngày 06 tháng 06 năm 2022 do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Tuấn T đối với Bản án hình sự thẩm số 17/2022/HS-ST, ngày 26 tháng 4 năm 2022, của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Long An.
Bị cáo kháng cáo: Nguyễn Tuấn T, sinh năm 1986, tại Thành phố Hồ Chí Minh. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: khu A, phường B , thị xã L, tỉnh Bình Phước; chỗ ở hiện nay: ấp M, xã L1, huyện C, tỉnh Long An; nghề nghiệp: Tài xế; quốc tịch: Việt Nam; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 12/12; con ông Nguyễn Đình T1, sinh năm 1960 và bà Nguyễn Thị Ngọc T2, sinh năm 1960; anh chị em ruột có 03 người; có vợ tên Vi Lâm Ngọc T3, sinh năm 1993, bị cáo chưa có con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo tại ngoại, có mặt.
Những người tham gia tố tụng khác không có kháng cáo, không có liên quan đến kháng cáo không triệu tập:
- Bị hại:
1. Anh Huỳnh Hiếu N, sinh năm 1985. Địa chỉ: Số 228/8A đường H, Phường 9, Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh.
2. Ông Lâm Mộc T4, sinh năm 1956. Địa chỉ: Số 336/28 đường L2, Phường 12, Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh.
3. Anh Lâm Trường P, sinh năm 1980. Địa chỉ: Số 228/8A đường H, Phường 9, Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Người làm chứng:
1. Bà Lâm Mỹ T5, sinh năm 1959.
2. Chị Vi Lâm Ngọc T3, sinh năm 1993.
3. Anh Nguyễn Văn D, sinh năm 1974.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 19 giờ ngày 15/11/2020, Nguyễn Tuấn T đang ở nhà cùng với vợ là Vi Lâm Ngọc T3 tại ấp M, xã L1, huyện C, tỉnh Long An. Lúc này, Huỳnh Hiếu N chở bà Lâm Mỹ T5 (mẹ vợ của T) đến nhà T để giải quyết việc mâu thuẫn giữa vợ chồng T với bà L4 ở gần nhà. Khi đến nơi, bà T5 đi qua nhà bà L4 để nói chuyện cùng lúc này ông Lâm Ngọc T4 (em ruột bà T5) cũng có mặt ở đó do bà T5 gọi điện thoại cho ông T4 đến. Khoảng 15 phút sau, bà T5 trở lại nhà T, chửi và đánh Vi Lâm Ngọc T3. Nguyễn Tuấn T đang uống bia ở phía trước nhà nên hỏi “Sao mẹ đánh vợ con” thì bà T5 dùng tay đánh T nên giữa T và bà T5 xảy ra xô xát, anh Huỳnh Hiếu N thấy vậy liền dùng tay đánh vào vai T một cái. Lúc này, ông Lâm Mộc T4 và Lâm Trường P (con ông T4) đi đến can ngăn thì cũng xảy ra xô xát với T. Ông T4 dùng tay đẩy vào cổ T làm T ngã. T chạy vào nhà lấy một con dao bằng kim loại, mũi bằng, màu trắng để ở kệ sát nhà vệ sinh (lưỡi dao dài 18,5cm, chiều ngang rộng nhất 9,5cm, hẹp nhất 8,5cm, bề dày 1mm, cán dao bằng cây, dài 13cm, rộng 03cm, cao 02cm) đi ra.
T cầm dao bên tay trái, chém từ trên xuống vào người của P, P đưa tay trái lên đỡ nên trúng vào bàn tay. P lùi lại thì bị vấp vào bậc tam cấp nhà đối diện ngã. P nhặt ly T4 tinh trên bậc tam cấp bên tay phải ném vào mặt của T, T xông tới cầm dao chém từ trên xuống người P. Thấy vậy, ông T4 lấy ghế nhựa lên đỡ, dao trượt qua ghế trúng vào vai trái của P, P đứng dậy bỏ chạy. T quay qua cầm dao chém từ trên xuống 02 cái vào người ông T4, ông T4 lấy ghế nhựa đưa lên đỡ, lưỡi dao trúng vào bàn tay phải và trán ông T4. Ông T4 bị ngã, T tiếp tục cầm dao chém vào vai phải ông T4 01 cái nữa, ông T4 bỏ chạy. T quay qua N và cầm dao chém từ trên xuống, N lấy ghế nhựa lên đỡ và bị ngã. T tiếp tục chém thêm 01 cái nữa, N đưa tay lên đỡ, lưỡi dao trúng vào tay phải, N lấy ghế ném vào T, rồi bỏ chạy. P lấy xe mô tô chở ông T4 và anh N đi cấp cứu ở bệnh viện Đa khoa Cần Giuộc, ông T4 và P được khâu vết thương rồi về nhà. Còn N được chuyển đến bệnh viện Chấn thương chỉnh hình ở Thành phố Hồ Chí Minh điều trị đến ngày 19/11/2020 thì xuất viện, đến ngày 25/5/2021 tiếp tục nhập viện đến ngày 27/5/2021 thì xuất viện. Đến ngày 30/11/2021, P tiếp tục đến bệnh viện Chấn thương chỉnh hình ở Thành phố Hồ Chí Minh điều trị đến ngày 02/12/2021 thì xuất viện. Sau đó, ông T4, P, N trình báo công an và có đơn yêu cầu xử lý hình sự đối với T. Riêng, T bị thương tích, có đơn không yêu cầu xử lý hình sự và không yêu cầu bồi thường.
Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 80/TgT.21-PY ngày 26/4/2021 của Trung tâm pháp y – Sở y tế tỉnh Long An kết luận tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định của nạn nhân Lâm Mộc T4 là 13%.” Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 84/TgT.21-PY ngày 05/5/2021 của Trung tâm pháp y – Sở y tế tỉnh Long An kết luận thương tích tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định của nạn nhân Lâm Trường P là 04%.” Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 86/TgT.21-PY ngày 10/5/2021 của Trung tâm pháp y – Sở y tế tỉnh Long An kết luận tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định của nạn nhân Huỳnh Hiếu N là 25%.” Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 17/2022/HS-ST, ngày 26 tháng 4 năm 2022, của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Long An đã quyết định:
Căn cứ vào điểm d khoản 3 Điều 134; Điều 38; Điều 50; điểm b, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54 của Bộ luật Hình sự.
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tuấn T phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Tuấn T 04 (bốn) năm tù, thời gian tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí, quyền và thời hạn kháng cáo đối với những người tham gia tố tụng.
Ngày 05 tháng 5 năm 2022 bị cáo Nguyễn Tuấn T kháng cáo yêu cầu giảm nhẹ hình phạt và hưởng án treo.
Tại phiên tòa Pc thẩm;
Bị cáo Nguyễn Tuấn T thừa nhận đã thực hiện hành vi phạm tội đúng như bản án sơ thẩm đã xét xử. Bị cáo xác định Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm d khoản 3 Điều 134 Bộ luật Hình sự là đúng, không oan. Tuy nhiên, cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 4 năm tù là nặng so với hành vi của bị cáo gây ra, bị cáo kháng cáo yêu cầu giảm nhẹ hình phạt và hưởng án treo.
Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An phát biểu quan điểm giải quyết vụ án:
Về tố tụng: Bị cáo Nguyễn Tuấn T thực hiện kháng cáo đúng quy định Bộ luật Tố tụng hình sự nên được chấp nhận xem xét theo thủ tục phúc thẩm là có căn cứ.
Về nội dung: Lời khai nhận của bị cáo Nguyễn Tuấn T tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp với lời khai tại phiên tòa sơ thẩm và các chứng cứ trong hồ sơ vụ án có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo có đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm d khoản 3 Điều 134 Bộ luật Hình sự, nên cấp sơ thẩm xét xử đối với bị cáo về tội danh và điều luật trên là đúng, không oan. Khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Trong quá trình điều tra và xét xử bị cáo thành khẩn khai báo, thể hiện sự ăn năn hối cải về hành vi đã gây ra; tích cực tự nguyện bồi thường toàn bộ chi phí điều trị cho các bị hại do tại giai đoạn điều tra các bị hại chỉ yêu cầu bồi thường về chi phí điều trị, tại phiên tòa các bị hại mới yêu cầu bồi thường về tiền mất thu nhập thực tế và tiền bù đắp về tổn thất tinh thần thì bị cáo đồng ý bồi thường theo quy định của pháp luật và trong vụ án này bị hại cũng có lỗi một phần, là các tình tiết giảm nhẹ quy định điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo có 02 tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự nên Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ hình phạt và xử phạt bị cáo 4 năm tù. Bị cáo kháng cáo yêu cầu giảm nhẹ hình phạt và hưởng án treo. Xét thấy: Mức hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng đối với bị cáo là tương xứng với hành vi bị cáo gây ra. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo kháng cáo có bổ sung thêm tình tiết giảm nhẹ mới là hoàn cảnh gia đình khó khăn, có xác nhận của chính quyền địa phương. Ngoài ra, bị cáo có nộp 50.000.000 đồng số tiền bồi thường thiệt hại cho các bị hại theo bản án sơ thẩm đã tuyên, nên có căn cứ giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt. Đối với hành vi phạm tội của bị cáo là rất nghiêm trọng, bị cáo gây thương tích cho 03 người nên bị cáo không có đủ điều kiện để hưởng án treo theo quy định Điều 65 Bộ luật Hình sự. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự, sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 17/2022/HS-ST, ngày 26 tháng 4 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Long An, giảm cho bi cáo từ 6 đến 9 tháng tù. Bị cáo Nguyễn Tuấn T không phải chịu án phí hình sự Pc thẩm.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo biết mình vi phạm pháp luật, rất ăn năn hối cải về hành vi của mình, đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo hưởng án treo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Bị cáo Nguyễn Tuấn T kháng cáo trong thời hạn quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự nên Tòa án nhân dân tỉnh Long An thụ lý xét xử theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp với phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với các tài liệu và chứng cứ khác có trong hồ sơ đã đủ cơ sở kết luận: Khoảng 19 giờ, ngày 15/11/2020, bà Lâm Mỹ T5, ông Lâm Trường T4, anh Huỳnh Hiếu N, anh Lâm Trường P đến nhà của Nguyễn Tuấn T ở ấp M, xã L1, huyện C, tỉnh Long An để giải quyết việc mâu thuẫn giữa con bà T5 là Vi Lâm Ngọc T3 là vợ của Nguyễn Tuấn T với bà L4 gần nhà T. Trong lúc nói chuyện bà T5 đã chửi và đánh Vi Lâm Ngọc T3, Nguyễn Tuấn T nên giữa bà bà T5 và T xảy ra xô xát. Thấy vậy, Huỳnh Hiếu N dùng tay đánh vào vai T một cái, ông Lâm Mộc T4 và Lâm Trường P chạy đến can ngăn đã dùng tay đẩy vào cổ T làm T ngã nên xảy ra xô xát. Sau đó, T vào nhà lấy một con dao lưỡi bằng kim loại chém vào người ông Lâm Mộc T4, anh Lâm Trường P, anh Huỳnh Hiếu N gây thương tích cụ thể với tỷ lệ tổn thương cơ thể của ông T4 là 13%, anh P là 04%, anh N 25%. Như vậy, hành vi của bị cáo Nguyễn Tuấn T có đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm d khoản 3 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Nguyễn Tuấn T về tội danh và điều luật trên là có căn cứ, đúng quy định pháp luật.
[3] Xét kháng cáo của bị cáo Nguyễn Tuấn T: Khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Trong quá trình điều tra và xét xử bị cáo thành khẩn khai báo, thể hiện sự ăn năn hối cải về hành vi đã gây ra; tích cực tự nguyện bồi thường toàn bộ chi phí điều trị cho các bị hại do tại giai đoạn điều tra các bị hại chỉ yêu cầu bồi thường về chi phí điều trị, tại phiên tòa các bị hại mới yêu cầu bồi thường về tiền mất thu nhập thực tế và tiền bù đắp về tổn thất tinh thần thì bị cáo đồng ý bồi thường theo quy định của pháp luật và trong vụ án này bị hại cũng có lỗi một phần, là các tình tiết giảm nhẹ quy định điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo có 02 tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự nên Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ hình phạt và xét xử bị cáo 4 năm tù. Bị cáo kháng cáo yêu cầu giảm nhẹ hình phạt và hưởng án treo. Nhận thấy: Bị cáo Nguyễn Tuấn T là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết được sức khỏe của người khác luôn được pháp luật bảo vệ, việc xâm phạm sức khỏe của người khác là vi phạm pháp luật, thế nhưng bị cáo coi thường sức khỏe của người khác, không những đã xâm phạm đến sức khỏe của bị hại mà còn gây mất an ninh trật tự tại địa phương. Mức hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng đối với bị cáo là tương xứng với hành vi bị cáo gây ra. Bị cáo kháng cáo có bổ sung thêm tình tiết giảm nhẹ mới là hoàn cảnh gia đình khó khăn, có xác nhận của chính quyền địa phương. Ngoài ra bị cáo có nộp 50.000.000 đồng số tiền bồi thường thiệt hại cho các bị hại theo bản án sơ thẩm đã tuyên, nên có căn cứ giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Hành vi trái pháp luật của bị cáo là rất nghiêm trọng, xuất phát từ mâu thuẫn nhỏ giữa bị cáo và bị hại, bị cáo đã dùng con dao lưỡi bằng kim loại là hung khí nguy hiểm gây thương tích cho các bị hại là ông T4 13%, anh P 04%, anh N 25%, nên đối với bị cáo không có đủ điều kiện để hưởng án treo theo quy định Điều 65 Bộ luật Hình sự. Do đó cần chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo, sửa bản án hình sự sơ thẩm 17/2022/HS-ST, ngày 26 tháng 4 năm 2022, của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Long An, giảm một phần hình phạt cho bị cáo Nguyễn Tuấn T như đề nghị của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa là phù hợp.
[4] Về án phí: Căn cứ Điều 135 và 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 củ Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và L4 phí Tòa án thì bị cáo không thuộc trường hợp phải chịu án phí hình sự phúc thẩm do một phần kháng cáo được chấp nhận.
[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Nguyễn Tuấn T. Sửa Bản án hình sự sơ thẩm 17/2022/HS-ST, ngày 26 tháng 4 năm 2022, của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Long An, về hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Tuấn T.
Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Tuấn T phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
Căn cứ vào điểm d khoản 3 Điều 134; Điều 38; Điều 50; điểm b, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Tuấn T 03 (Ba) năm 03 (Ba) tháng tù, thời gian tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.
2. Tiếp tục tạm giữ số tiền 50.000.000đ (Năm mươi triệu đồng) do bị cáo Nguyễn Tuấn T đã nộp theo biên lai thu tiền số 0001493 ngày 23/5/2022 của Chi cục Thi hành án huyện C, để đảm bảo thi hành phần trách nhiệm dân sự của bị cáo.
3. Về án phí: Áp dụng Điều 135 và 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 củ Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Nguyễn Tuấn T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án về tội cố ý gây thương tích số 152/2022/HS-PT
Số hiệu: | 152/2022/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Long An |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 18/08/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về