Bản án về tội cố ý gây thương tích số 147/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỘC CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 147/2023/HS-ST NGÀY 16/06/2023 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 16 tháng 6 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyên M , tỉnh Sơn La, xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 144/2023/TLST - HS ngày 25 tháng 5 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 143/2023/QĐXXST - HS ngày 26 tháng 5 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 05/2023 ngày 07 tháng 6 năm 2023 đối với bị cáo:

Hà Văn H, sinh năm 1975 tại huyện M, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Tiểu khu Chiềng Đi, thị trấn Nông Trường M, huyện M, tỉnh Sơn La; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Thái; trình độ văn hoá: Lớp 7/12; nghề nghiệp: Trồng trọt; đảng phái, đoàn thể: Không; con ông Hà Văn T, con bà Vì Thị L (Đã chết), vợ Mùi Thị D (Đã ly hôn), có 02 con; tiền án, tiền sự: Không.

Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/3/2023 đến nay, có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Hà Văn H: Ông Lương Tuấn A, ông Bùi Thanh L, Luật sư – thuộc Công ty Luật TNHH ABA Việt Nam – Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội, có mặt.

- Bị hại: Ông Hà Mạnh H1, sinh năm 1976, trú tại: Tiểu khu C, thị trấn Nông Trường M, huyện M, tỉnh Sơn La, có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

Bà Hà Thị H2, sinh năm 1972, trú tại: Tiểu khu C, thị trấn Nông Trường M, huyện M, tỉnh Sơn La, có mặt.

- Người làm chứng:

1. Đinh Thị H3, sinh năm 1982, địa chỉ: Tiểu khu C, thị trấn Nông Trường M, huyện M, tỉnh Sơn La, có mặt.

2. Hà Văn T, sinh năm 1986, địa chỉ: Tiểu khu C, thị trấn Nông Trường M, huyện M, tỉnh Sơn La, có mặt.

3. Hà Thị T1, sinh năm 1974, địa chỉ: Tiểu khu C, thị trấn Nông Trường M, huyện M, tỉnh Sơn La, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 18 giờ 00 phút, ngày 14 tháng 01 năm 2023 Hà Mạnh H1 vào nhà Hà Văn H cùng trú tại Tiểu khu Chiềng Đi (là hàng xóm cạnh nhà nhau) chơi, lúc này gia đình H đang làm cơm thắp hương, sau khi nói chuyện được một lúc thì H1 đi đến nhà bạn H1 ăn cơm, uống rượu. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày Hà Mạnh H1 quay lại nhà Hà Văn H chơi và được mọi người mời uống rượu, được một lúc giữa H1 và H xảy ra mâu thuẫn do H1 có lời nói xúc phạm H nên hai bên giằng co từ bếp ra ngoài sân, H dùng chân, tay đánh H1, sau đó H1 nhặt 01 khúc củi định đánh H thì được Hà Văn T can ngăn nên H1 đi về nhà, rồi cầm một con dao đựng trong bao dao đứng trước sân của gia đình và có lời nói thách thức H “Thằng H mày có giỏi mày lên đây chém nhau với tao, hôm nay tao sống chết với mày, chứ tao sợ gì mày”, do bực tức H đã lấy 01 con dao quắm của gia đình đi sang nhà Hà, khi đến vị trí H1 đang đứng thấy Hà cầm con dao vẫn nằm trong bao dao, thấy vậy H nói “ Thế có dám chém không” thấy H lao về phía mình nên H1 định bỏ chạy vào nhà, H dùng tay phải cầm dao chém một phát về phía H1 trúng vào mạn sườn trái của H1, H1 lấy tay định rút dao ra khỏi bao dao để chém lại H, H thấy thế vung dao lên chém một nhát vào cổ tay phải của H1 làm rơi con dao xuống đất, khi thấy sự việc xảy ra mọi người đến can ngăn, đưa H1 đi cấp cứu tại Bệnh Viện đa khoa Thảo Nguyên từ ngày 14/01/2023 đến ngày 27/02/2023 phục hồi ra viện.

Ngày 14/01/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện M tiến hành khám nghiệm hiện trường xác định nơi xảy ra vụ án là khu vực gian bếp và sân của gia đình Hà Văn H tại Tiểu khu Chiềng Đi, thị trấn Nông Trường M: Gian bếp được lợp Proxi măng, quây xung quang bằng tre và bạt, diện tích 2,6x 4,1m; vị trí then tre tại vách phía Tây có cài 01 con dao quắm dài 50cm, cán bằng gỗ; cách cửa bếp 6,5m ra ngoài thu giữ 01 gậy gỗ dài 01m, đường kính 06cm.

Vị trí nơi Hà Văn H gây thương tích đối với Hà Mạnh H1 tại gia đình Hà Mạnh H1: Tại vị trí sân cách mép cửa chính 1,95m là đám chất màu nâu dạng nhỏ giọt trên diện rộng 3,7 x 2,1m; tại vị trí ngoài tường nhà giáp sân có bám chất màu nâu đỏ chiều từ trên xuống, từ phải sang trái trên diện 3,7 x 85cm, cách mép cửa 2,2m; tại vị trí nền nhà phòng khách có đám chất dịch màu nâu kích thước 2,4 x 1,9m, tâm vết cách mép cửa chính ra vào 1,3m, cách cửa vào phòng ngủ 2,4m, trên nền nhà cửa chính 1,7m phát hiện 01 chiếc khăn kích thước 1,1 x 0,55m, có bám dính màu.

Ngày 06/02/2023 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện M đã Quyết định trưng cầu Trung tam pháp y tỉnh Sơn La giám định tỷ lệ thương cơ thể của Hà Mạnh H1. Tại bản kết luận giám định số: 40/TgT ngày 14/02/2023 của Trung tâm pháp y tỉnh Sơn La kết luận đối với Hà Mạnh H1 “ Tỉ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định là: 38 % (ba mươi tám); Cơ chế hình thành thương tích: Thương tích sẹo vết thương phần mềm vùng ngực, tay phải do tác động trực tiếp của vật sắc nhọn, diện tiếp xúc giới hạn gây nên” Cáo trạng số 99/CT-VKS ngày 23/5/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện M, tỉnh Sơn La truy tố Hà Văn H về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện M, tỉnh Sơn La giữ nguyên cáo trạng truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Hà Văn H phạm tội “Cố ý gây thương tích” và áp dụng các căn cứ pháp luật như sau:

1. Áp dụng điểm c khoản 3 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Hà Văn H từ 05 năm đến 06 năm tù.

2. Về bồi thường dân sự: Áp dụng khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự; Điều 13, 584, 585, 586, 590 Bộ luật Dân sự.

Chấp nhận gia đình bị cáo Hà Văn H do chị Hà Thị H2 (chị gái của bị cáo H) đã bồi thường thiệt hại về sức khỏe và chi phí điều trị cho người bị hại Hà Mạnh H1 với số tiền 20.000.000đ (Hai triệu đồng). Anh Hà Mạnh H1 đã nhận đủ, không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm.

3. Về vật chứng của vụ án: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: 01 (Một) đoạn gậy gỗ hình trụ tròn dài 01m đường kính 06cm; 01 (Một) gói niêm phong bên ngoài ghi: Vật chứng vụ án, bên trong đựng 01 con dao; 01(Một) hộp bìa cát tông màu trắng đỏ được niêm phong bên trong đựng 01 chiếc áo khoác; 01 (Một) gói niêm phong bên ngoài ghi 01 con dao sau giám định, phần còn lại của các mẫu tóc ghi thu của Hà Văn H và Hà Mạnh H1.

4. Về án phí : Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.

Buộc bị cáo Hà Văn H phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Sau khi đại diện Viện kiểm sát luận tội và phát biểu quan điểm xử lý các vấn đề của vụ án.

Người bào chữa cho bị cáo có ý kiến như sau: Hành vi phạm tội của bị cáo là do hành vi trái pháp luật của người bị hại nên dẫn đến trạng thái của bị cáo H bị kích động mạnh và gây thương tích cho người bị hại tỷ lệ thương tích 38%, do vậy bị cáo Hà Văn H chỉ phạm tội “Cố ý gây thương tích hoặc Gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” theo khoản 2 Điều 135 của Bộ luật Hình sự và đưa ra các căn cứ giảm nhẹ như: Ngay sau khi gây thương tích cho bị hại, bị cáo đã chủ động nói với người nhà gọi điện báo Công an để khai báo và đầu thú, quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo phạm tội trong trường hợp kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của người bị hại gây ra, bị cáo tích cực tác động đến gia đình bồi thường cho người bị hại số tiền 20.000.000 đồng, người bị hại đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm b, e, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 54 Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo dưới khung hình phạt liền kề và cho bị cáo hưởng án treo để cải tạo, giáo dục tại địa phương.

Bị cáo nhất trí với quan điểm bào chữa của Luật sư, không có ý kiến gì tranh luận đối với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát.

Người bị hại Hà Mạnh H1 có ý kiến: Gia đình bị cáo đã bồi thường cho anh số tiền 20.000.000 đồng, nay không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có ý kiến: Không yêu cầu bị cáo phải hoàn trả số tiền 20.000.000 đồng, do chị đã bồi thường cho người bị hại, chị không đề nghị Tòa án xem xét giải quyết trong vụ án.

Trong lời nói sau cùng của bị cáo đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ mức án thấp nhất để sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an huyện M, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện M, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến, khiếu nại về hành vi của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Tại phiên tòa bị cáo Hà Văn H đã khai nhận toàn bộ hanh vi pham tôi cua minh nh ư đã khai tại cơ quan điêu tra, ngày 14/01/2023 Hà Văn H trong quá ăn cơm, uống rượu đã xẩy ra mâu thuẫn, sô sát nhỏ với Hà Mạnh H1 khi H dùng tay chân đánh H1, H1 đã dùng khúc củi đánh H được mọi người can ngăn, sau đó H về nhà lấy dao dài 50cm chém vào mạn sườn và tay của H1 gây thương tích. Lời khai của bị cáo không có nội dung gì thay đổi so với lời khai tại cơ quan Cảnh sát điều tra, bị cáo khẳng định việc khai báo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa ngày hôm nay là hoàn toàn tự nguyện và đúng với hành vi đã thực hiện.

Xét lời khai của bị cáo là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với đơn trình báo của bị hại; biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ; biên bản khám nghiệm hiện trường, sơ đồ hiện trường, bản ảnh hiện trường; bản Kết luận giám định pháp y về thương tích số 40/TgT ngày 14/02/2023 của Trung tâm pháp y tỉnh Sơn La.

Từ những chứng cứ nêu trên Hội đồng xét xử xét thấy: Bị cáo Hà Văn H là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Ngày 14/01/2023 do xảy ra sô sát nhỏ nên Hà Văn H đã có hành vi sử dụng 01 con dao chuôi bằng gỗ dài 50cm chém vào mạn sườn và cổ tay của Hà Mạnh H1 gây thương tích tỷ lệ tổn thương cơ thể là 38%. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội: Cố ý gây thương tích, theo quy định tại Điều 134 Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết định khung hình phạt: Hà Văn H đã sử dụng con dao chuôi bằng gỗ dài 50cm (là hung khí nguy hiểm) gây thương tích cho anh Hà Mạnh H1 với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 38% nên bị xét xử theo tình tiết định khung quy định tại điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật Hình sự, như bản cáo trạng số 99/CT-VKS của Viện kiểm sát nhân dân huyện M, tỉnh Sơn La truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, không oan sai.

Từ nhận định trên không có căn cứ chấp nhận luận cứ của người bào chữa cho bị cáo về chuyển tội danh sang tội: Cố ý gây thương tích hoặc Gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” theo khoản 2 Điều 135 của Bộ luật Hình sự, Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm: Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Bị cáo phạm tội với lỗi cố ý, nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật.

Xét về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Xét về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo phạm tội trong trường hợp kích động về tinh thần do lỗi của người bị hại, bị cáo tích cực tác động đến gia đình bồi thường cho người bị hại số tiền 20.000.000 đồng, người bị hại đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Do đó cần áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, do đó cần chấp nhận một phần quan điểm bào chữa của Luật sư về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, không chấp nhận quan điểm bào chữa của Luật sư về tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm e khoản 1 Điều 51 và Điều 54 Bộ luật Hình sự, cũng như đề nghị về hình phạt của người bào chữa.

Từ những đánh giá nêu trên Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng cải tạo, giáo dục đối với bị cáo, đồng thời mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm chung.

[3] Về bồi thường dân sự:

Người bị hại Hà Mạnh H1 yêu cầu bị cáo Hà Văn H bồi thường chi phí điều trị và tổn hại sức khỏe với tổng số tiền 20.000.000 đồng, tại biên bản thỏa thuận ngày 13/3/2023, chị Hà Thị H2 (chị gái bị cáo) đã bồi thường thay cho bị cáo H, người bị hại đã nhận đủ tiền và không yêu cầu bị cáo H phải bồi thường gì thêm. Xét việc thỏa thuận bồi thường của bị hại và gia đình bị cáo H là hoàn toàn tự nguyện, cần chấp nhận do phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự; Điều 13, 584, 585, 586, 587, 590 Bộ luật Dân sự.

Đối với số tiền chị Hà Thị H2 đã bồi thường cho người bị hại Hà Mạnh H1, chị H2 không yêu cầu bị cáo Hà Văn H phải hoàn trả và không yêu cầu Tòa án giải quyết, do đó không đặt ra việc xem xét giải quyết.

[4] Về vật chứng, xử lý vật chứng:

Đối với: 01 (Một) đoạn gậy gỗ hình trụ tròn dài 01m đường kính 06cm; 01 (Một) gói niêm phong bên ngoài ghi: Vật chứng vụ án, bên trong đựng 01 con dao;

01(Một) hộp bìa cát tông màu trắng đỏ được niêm phong bên trong đựng 01 chiếc khăn; 01(Một) hộp bìa cát tông màu trắng đỏ được niêm phong bên trong đựng 01 chiếc áo khoác; 01 (Một) gói niêm phong bên ngoài ghi 01 con dao sau giám định, phần còn lại của các mẫu tóc ghi thu của Hà Văn H và Hà Mạnh H1. Xét thấy đây là vật được sử dụng làm công cụ phạm tội, không có giá trị sử dụng. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a , c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, cần tịch thu tiêu hủy.

[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

[6] Thời hạn tạm giam bị cáo còn dưới 45 ngày, do đó Hội đồng xét xử ra quyết định tạm giam 45 ngày sau phiên tòa để đảm bảo thi hành án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 3 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự:

Tuyên bố bị cáo Hà Văn H phạm tội “Cố ý gây thương tích”. Xử phạt bị cáo Hà Văn H 05 (Năm) năm, 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 01/3/2023.

2. Về bồi thường dân sự: Căn cứ khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự; Điều 13, 584, 585, 586, 590 Bộ luật Dân sự.

Chấp nhận gia đình bị cáo Hà Văn H đã bồi thường thiệt hại về sức khỏe và chi phí điều trị cho người bị hại Hà Mạnh H1 với số tiền 20.000.000đ (Hai triệu đồng). Anh Hà đã nhận đủ, không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm.

3. Về vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: 01 đoạn gậy gỗ hình trụ tròn dài 01m đường kính 06cm;

01 (Một) gói niêm phong bên ngoài ghi: Vật chứng vụ án, bên trong đựng 01 con dao; 01(Một) hộp bìa cát tông màu trắng đỏ được niêm phong bên trong đựng 01 chiếc khăn; 01(Một) hộp bìa cát tông màu trắng đỏ được niêm phong bên trong đựng 01 chiếc áo khoác; 01 (Một) gói niêm phong bên ngoài ghi 01 con dao sau giám định, phần còn lại của các mẫu tóc ghi thu của Hà Văn H và Hà Mạnh H1.

4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Hà Văn H phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (Ngày 16/6/2023).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

34
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 147/2023/HS-ST

Số hiệu:147/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mộc Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về