Bản án về tội cố ý gây thương tích số 13/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỘI AN, TỈNH QUẢNG NAM

BẢN ÁN 13/2024/HS-ST NGÀY 17/04/2024 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 17 tháng 4 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh Q, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 14/2024/TLST-HS ngày 07 tháng 3 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 15/2024/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 4 năm 2024, đối với

- Bị cáo: Phạm Văn S, sinh ngày 10/5/1992 ; tại Q.

Nơi cư trú: Tổ 19, thôn Bàu Ốc, xã Cẩm Hà, thành phố H, tỉnh Q.

Nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam. Quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông: Phạm Văn D và bà: Trần Thị Lệ Thu, bị cáo chưa có vợ con.

Tiền án, tiền sự: Không Nhân thân: Ngày 06/9/2016 bị Công an thành phố H p hạt cảnh cáo về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” Ngày 07/3/2019 bị Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh Q xử p hạt 01 (một) năm tù về tội “Cố ý gây thương tích” theo bản án Hình sự sơ thẩm số: 13/2019/HS-ST; bị bắt tạm giam từ ngày 05/01/2024. Có mặt tại phiên tòa.

- Người đại diện hợp pháp cho bị cáo: bà Trần Thị Lệ Thu, sinh năm: 1972 Trú tại: 7/20 Trần Cao Vân, p hường Cẩm Phô, thành phố H, tỉnh Q; là mẹ ruột bị cáo. Có mặt

- Người bào chữa cho bị cáo: ông Phan Công H, sinh năm: 1976 Trú tại: số 1547 Trần Thủ Độ, p hường Điện Nam Đông, thị xã Điện Bàn, tỉnh Q.

Văn p hòng Luật sư P thuộc đoàn Luật sư tỉnh Q. Có mặt

- Bị hại: ông Phạm Văn C, sinh năm: 1979 Nơi cư trú: Tổ 19, thôn Bàu Ốc, xã Cẩm Hà, thành phố H, tỉnh Q. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Người làm chứng: bà Phùng Thị C, sinh năm: 1938 Nơi cư trú: Tổ 19, thôn Bàu Ốc, xã Cẩm Hà, thành phố H, tỉnh Q. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ s ơ vụ án và diễn biến tại phiên t òa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 06 giờ 00 p hút ngày 20/9/2023, ông Phạm Văn C chở mẹ là bà Phùng Thị C từ nhà trọ tại p hường Cẩm Phô, thành phố H về nhà, nhìn thấy cháu ruột là Phạm Văn S đang cầm dao hăm dọa cha ruột của mình là ông Phạm Văn D. Lúc này, ông C nói với bà C:“Mẹ kêu anh D ra con chở đi”. Nghe vậy, S nói với ông C: “Mày ngó tao à” rồi cầm dao (loại dao dài 50cm, cán dao dài 30cm được quấn vải màu tím, lưỡi dao bằng kim loại dài 20cm, rộng 5cm) chạy về hướng của ông C. Thấy vậy, ông C bỏ chạy ra đường bê tông ở trước nhà. Khi ông C chạy đến đoạn ngã ba tiếp giáp giữa đường bê tông và đường nhựa Bàu Ốc Thượng thì ông C té ngã xuống đất. S đuổi theo, dùng dao chém vào vùng lưng của ông C gây thương tích. Sau khi chém xong, S cầ m dao đi vào nhà, còn ông C được người dân đưa đi cấp cứu tại bệnh viện. Ngày 20/10/2023, ông C có đơn yêu cầu khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can đối với Phạm Văn S.

Tại Kết luận giám định tổn thương cơ thể trên người sống số 828/KLTTCT-TTPY ngày 13/10/2023 của Trung tâm Pháp y tỉnh Q kết luận tỷ lệ p hần trăm tổn thương cơ thể của ông Phạm Văn C tại thời điểm giám định là 04%, với thương tích cụ thể: 01 vết thương vùng lưng bên p hải, kích thước trung bình ngang qua xương sườn VI, VII vùng lưng bên p hải; Vùng thắt lưng hông bên p hải có mảng thâm tím lan tỏa dưới da trên diện dài 8cm, rộng 7cm; 01 sẹo kích thước trung bình mặt sau khuỷu tay p hải.

Tại Kết luận giám định p háp y tâm thần theo trưng cầu số 1604/KLGĐ Ngày 24/11/2023, Trung tâm p háp y tâm thần khu vực miền Trung, kết luận: trước thời điểm gây án, tại thời điểm gây án, sau thời điểm gây án, thời điểm hiện tại:

+ Kết luận về y học: Rối loạn tâm thần và hành vi khác do sử dụng nhiều loại ma túy (F19.8).

+ Kết luận về khả năng nhận thức và điều khiển hành vi: Hạn chế khả năng nhận thức và hạn chế khả năng điều khiển hành vi.

Tại bản cáo trạng số 11/CT-VKSHA ngày 05 tháng 3 năm 2024, Viện kiểm sát nhân dân thành phố H, tỉnh Q đã truy tố bị cáo Phạm Văn S về tội “Cố ý gây thương tích”, theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên thực hành quyền công tố vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo theo như Cáo trạng. Căn cứ vào tính chất, hành vi thực hiện tội p hạm, nhân thân, tình tiết giảm nhẹ áp dụng đối với bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bị cáo Phạm Văn S về tội “Cố ý gây thương tích”, theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015.

- Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 134; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử p hạt bị cáo Phạm Văn S từ 09 tháng đến 12 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình p hạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam ngày 05/01/2024.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, đề nghị Hội đồng xét xử t uyên lưu hồ sơ vụ án 01 đĩa DVD chứa dữ liệu ghi âm hỏi cung bị cáo Phạm Văn S ngày 12/01/2024.

Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) con dao dài 50cm, có cán dài 30cm quấn vải màu tím, lưỡi dao bằng kim loại dài 20cm rộng 05cm.

- Về dân sự: ông Phạm Văn C không yêu cầu bồi thường.

- Về án phí: Bị cáo p hải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của p háp luật.

Người bào chữa cho bị cáo Phạm Văn S trình bày luận cứ: Thống nhất với tội danh mà Viện kiểm sát truy tố đối với bị cáo; tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà Kiểm sát viên đã đề nghị áp dụng đối với bị cáo S; ngoài ra hoàn cảnh của bị cáo quá khó khăn , bị cáo không được giáo dục đầy đủ. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng mức hình p hạt thấp nhất theo quy định của p háp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo Phạm Văn S thừa nhận hành vi p hạm tội của mình và thống nhất với nội dung cáo trạng, rất ăn năn hối lỗi; đồng thời mong Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình p hạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố H, tỉnh Q và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đều đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Trong quá trình điều tra và truy tố, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đ ã thực hiện đều hợp p háp .

[2] Về nội dung: Khoảng 06 giờ ngày 20/9/2023, tại ngã ba tiếp giáp đường bê tông và đường nhựa Bàu Ốc Thượng thuộc tổ 19, thôn Bàu Ốc, xã Cẩm Hà, thành phố H, tỉnh Q, Phạm Văn S sử dụng 01 con dao được xem là hung khí nguy hiểm chém vào vùng lưng của ông Phạm Văn C gây thương tích với tỷ lệ 04%.

Ông Phạm Văn C có đơn yêu cầu khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can đối với Phạm Văn S. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa là hoàn toàn p hù hợp với lời khai của bị hại, của người làm chứng, tại Kết luận giám định tổn thương cơ thể trên người sống số 828/KLTTCT-TTPY ngày 13/10/2023 của Trung tâm Pháp y tỉnh Q, vết thương trên cơ thể ông C là do bị cáo S dùng 01 vật sắc cạnh, là hung khí nguy hiểm, tấn công gây thương tích cho ông C 01 vết thương vùng lưng bên p hải, kích thước trung bình ngang qua xương sườn VI, VII vùng lưng bên p hải. Như vậy, hành vi của bị cáo Phạm Văn S đã đủ yếu tố cấu thành tội “ Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017) với tình tiết định khung là dùng “hung khí nguy hiểm” . Vì vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố H và quan điểm luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa đối với bị cáo là có cơ sở, đúng p háp luật.

[3] Xét tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi p hạm tội do bị cáo gây ra, Hội đồng xét xử thấy rằng: Tính mạng, sức khỏe của con người là một khách thể quan trọng, không ai được quyền xâm p hạm một cách trái p hép. Bản thân bị cáo là người đã trưởng thành, lẽ ra bị cáo p hải hiểu và nhận thức được hậu quả nghiêm trọng từ hành động nguy hiểm của mình . Hành vi của bị cáo nguy hiểm cho xã hội, không những xâm p hạm đến sức khỏe của bị hại mà còn gây mất trật tự tại địa p hương, gây bất bình trong quần chúng nhân dân. Do vậy bị cáo p hải chịu hình p hạt tương ứng với hành vi p hạm tội đã gây ra.

[4] Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo thì thấy: Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo Phạm Văn S đã thành khẩn khai báo, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015. Trong vụ án này bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên bị cáo có nhân thân không tốt , đã bị p hạt cảnh cáo về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” và đã từng bị xét xử về tội “Cố ý gây thương tích”; nhưng bị cáo không ăn năn hối cải mà tiếp tục p hạm tội cùng tính chất, do đó Hội đồng xét xử cần xử p hạt nghiêm, nhằm mục đích cải tạo, giáo dục bị cáo.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 Hội đồng xét xử xét thấy cần tuyên :

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) con dao dài 50cm, có cán dài 30cm quấn vải màu tím, lưỡi dao bằng kim loại dài 20cm rộng 05cm.

- Lưu kèm hồ sơ vụ án: 01 đĩa DVD chứa dữ liệu ghi âm hỏi cung bị cáo Phạm Văn S ngày 12/01/2024 .

[7] Những vấn đề khác có liên quan: Không có.

[8] Về án phí: Bị cáo Phạm Văn S p hải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của p háp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Phạm Văn S phạm tội“Cố ý gây thương tích”.

- Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 134; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử p hạt bị cáo Phạm Văn S 01(một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình p hạt tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam ngày 05 tháng 01 năm 2024.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015. Tuyên:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) con dao dài 50cm, có cán dài 30cm quấn vải màu tím, lưỡi dao bằng kim loại dài 20cm rộng 05cm.

(Vt chứng hiện đang được tạm giữ tại Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố H theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 07/3/2024).

- Lưu kèm hồ sơ vụ án: 01 đĩa DVD chứa dữ liệu ghi âm hỏi cung bị cáo Phạm Văn S ngày 12/01/2024.

Về án phí: Căn cứ vào các Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp , quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Phạm Văn S p hải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (17/4/2024); bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ bản án được tống đạt hợp lệ.

Trưng hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hạn thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

46
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 13/2024/HS-ST

Số hiệu:13/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hội An - Quảng Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/04/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về