Bản án về tội cố ý gây thương tích số 131/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN THÀNH, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 131/2023/HS-ST NGÀY 27/12/2023 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 27 tháng 12 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 125/2023/TLST- HS, ngày 21 tháng 11 năm 2023 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 115/2023/QĐXXST- HS ngày 15 tháng 12 năm 2023 đối với bị cáo:

Nguyễn Danh L, tên gọi khác: Không, sinh ngày: 04 tháng 4 năm 1987 tại huyện Y, tỉnh Nghệ An; nơi cư trú: Xóm F, xã B, huyện Y, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Danh LI, sinh năm 1950 và bà Vũ Thị T, sinh năm 1953(đã chết); vợ: Bùi Thị B, sinh năm 1986(Đã ly hôn); con: Có 03 con, L2 nhất sinh năm 2013, nhỏ nhất sinh năm 2021; tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú đến nay có mặt.

- Người bị hại: Chị Bùi Thị B, sinh năm 1986; Nơi cư trú: Xóm Đ, xã Đ, huyện Y, tỉnh Nghệ An. Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Hoàng Thị T1, sinh năm 1946; Nơi cư trú: Xóm Đ, xã Đ, huyện Y, tỉnh Nghệ An. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Vào khoảng 12 giờ 30 phút ngày 24/7/2023 Nguyễn Danh L, sinh năm 1987, trú tại xóm F, xã B, huyện Y ăn cơm tại nhà Nguyễn Danh L3 (em trai của L), sinh năm 1990, trú tại xóm V, xã Đ, huyện Y. Sau khi ăn xong L lấy điện thoại di động gọi điện qua ứng dụng Zalo của L tên "Danh Luong" qua ứng dụng Zalo tên "Bui Bình" của chị Bùi Thị B (vợ cũ L), sinh năm 1986, trú tại xóm F, xã B, huyện Y (hiện chị B đang sống cùng bố mẹ ruột tại xóm Đ, xã Đ, huyện Y) cháu Nguyễn Thị Quỳnh T2 (con gái của chị B và L), sinh năm 2014, trú tại xóm F, xã B, huyện Y nghe máy, lúc này cháu T2 cùng cháu Nguyễn Thị H (con gái T và chị B), sinh năm 2013, trú tại xóm F, xã B, huyện Y đang ngồi xem chị B cắt râu tôm. T nói với cháu T2: "cha sang chơi tỷ cha đi làm", cháu T2 quay sang nói với chị B: "tôm tít tươi mẹ hay", Nghe cháu T2 nói vậy nên T hoi: "tôm tít ở mô ra", cháu T2 nói với L: "tôm tít mẹ mua về", L tiếp tục nói: "bây sống cho có tình người với", nghe T nói vậy thì chị B nói cháu T2 tắt điện thoại. Khoảng 10 phút sau, L điều khiển xe mô tô Sirius, màu đỏ đen, Biển kiểm soát: 37P1-050.31 đến nhà ông Bùi Ngọc B1 (bố đẻ chị B), sinh năm 1938, trú tại xóm Đ, xã Đ, huyện Y để thăm các con. Khi đến nơi, L thấy chị B đang cắt râu tôm tít ngoài sân giếng nên đi ra hỏi: “tôm ni mi mua ở mô về”, chị B trả lời: “tôm mua ở chợ”, L lại hỏi: “chợ B2 làm chi có tôm tươi ri”, chị B trả lời: “mua ở chợ D”, L lại hỏi: “mua ở D phải không?”, chị B không nói gì. L tiến đến dùng tay tát 01 (một) cái vào mặt, đấm 01 (một) cái vào ngực chị B, thấy chị B đang cầm 01 (một) chiếc kéo đang dùng để cắt râu tôm Lương giật lấy chiếc kéo trong tay chị B rồi đâm 02 (hai) cái vào vùng vai trái chị B. Thấy L đánh chị B, cháu T2 và cháu H hét lên. Nghe thấy tiếng hét của 02 (hai) cháu, bà Hoàng Thị T1 (mẹ chị B), sinh năm 1946, trú tại xóm Đ, xã Đ, huyện Y chạy ra xem rồi hét lên: “hắn vô hắn giết người, phá nhà rồi”.

Sau khi đánh chị B, L đi ra sân, chị B chạy ra vườn đứng. L cầm chiếc kéo đi ra ngoài cổng, chị B đi vào phòng ngủ của ông B1 đóng cửa lại, bà T1 đi theo L nhằm mục đích xin lại chiếc kéo để L không dùng kéo đánh người khác. Khi ra ngoài cổng L vứt chiếc kéo xuống đập Ruột Chó trước cổng nhà bà T1.

Một lúc sau, L đi vào nhà bà T1 thấy 01 (một) con dao đang để trước sân, L lấy con dao đi vào nhà dưới đi đến phòng ngủ chị B đang trốn chém 03- 04 cái vào cánh cửa, ổ khoá để mở cửa nhưng không được, L quay ra đi đến chém 02 (hai) phát vào 01 (một) Camera gắn ở góc tường nhà gần phòng ngủ chị B đang trốn, L tiếp tục đi ra sân rồi chém 04-05 cái vào đầu, yên xe mô tô Wave RSX, màu đỏ đen, Biển kiểm soát: 37P9-72xx, L tiếp tục chém vào cửa sổ phòng ngủ chị B đang trốn. Một lúc sau L bỏ chiếc dao ở sân rồi điều khiển xe mô tô về xã L, huyện Y ngồi uống nước đến chiều tối thì về nhà. Còn chị Bùi Thị B được người nhà đưa đi điều trị vết thương tại Bệnh viên đa khoa huyện Y đến ngày 01/8/2023 thì ra viện về nhà bố mẹ đẻ ở xóm Đ, xã Đ, huyện Y.

Cùng ngày chị Bùi Thị B đã có đơn yêu cầu khởi tố vụ án hình sự và giám định thương tích.

Ngày 25/7/2023, Nguyễn Danh L đến Công an huyện Y xin đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội.

Vật chứng và xử lý vật chứng:

- Thu giữ 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại WAVE RSX, BKS: 37P9-72xx, số khung: 2AY- 042xx, số máy: C43E-50058xx màu đỏ đen, xe đã qua sử dụng còn sử dụng được; 01 (một) Camera màu trắng, nhãn hiệu EZVIZ, đã qua sử dụng; 01 (một) ở khoá bằng kim loại, có tay cầm, nhăn hiệu "VIỆT 2 TIỆP". Quá trình điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là bà Hoàng Thị T1.

- Đối với chiếc kéo có kích thước được mô tả dài khoảng 20 cm, cán tay cầm màu đỏ, lưỡi bằng kim loại màu đen là công cụ thực hiện hành vi phạm tội quá trình điều tra đã truy tìm nhưng không thu hồi được.

Tại bản kết luận giám định tổn thương cơ thể trên người sống số 450/ KTTTCT-TTPY, ngày 03 tháng 8 năm 2023 của Trung tâm pháp y tỉnh N kết luận:

- Kết quả chính: Hai vết thương phần mềm tại: Vai bên trái và bả vai bên trái, không ảnh hưởng chức năng.

- Kết luận: Căn cứ thông tư số 22/2019/TT-BYT ngày 28/8/2019 của Bộ Y Quy định tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định Pháp y, giám định Pháp y tâm thần xác định tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của Bùi Thị B tại thời điểm giám định là: 03% (ba phần trăm), áp dụng phương pháp cộng tại Thông tư.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số: 33/KL-HĐĐGTS ngày 03/8/2023 của hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Y kết luận:

-01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại WAVE RSX, BKS: 37P9-72xx, màu đỏ đen, xe đã qua sử dụng, có các bộ phận bị hư hỏng như sau:

+ Các bộ phận: 01 (một) ốp nhựa cụm điều khiển xe đèn pha cốt bị vỡ kích thước (0,05 x 0,055)m; 01 (một) ốp nhựa sơn màu đen trên đèn chiếu sáng trước đầu xe có 04 vết nứt vỡ kích thước (0,15x0,12) m; 01 (một) ốp ngoài sau, dưới cụm công tơ mét bằng nhựa sơn màu đỏ có vết nứt vỡ kích thước (0,14x0,001)111, 03 (ba) khoản này thời điểm ngày 24/7/2023 bị thiệt hại: 120.000 đồng (một trăm hai mươi nghìn đồng);

+ 01 (một) cụm báo công tờ mét gồm: mặt gương bị vỡ, mặt số bị vỡ, kim báo gãy, hư hỏng kích thước (0,2x0,15)111, thời điểm ngày 24/7/2023 bị thiệt hại: 80.000 đồng (tám mươi nghìn đồng);

+ 01 (một) ốp nhựa sơn màu xanh sau gương chiếu hậu trên đầu xe mô tô phía tay lái trái vỡ, rời khỏi ốp gương, thời điểm ngày 24/7/2023 bị thiệt hại: 20.000 đồng (hai mươi nghìn đồng);

+ Giữa, sau trên vỏ yên bằng nhựa màu đen có 01 vết rách, thủng kích thước (0,02x0,002x0,015)111, thời điểm ngày 24/7/2023 bị thiệt hại: 50.000 đồng (năm mươi nghìn đồng);

- Giữa, trước ốp nhựa màu trắng camera nhãn hiệu EZVIZ có vết trượt xước kích thước (0,013x0,011)111, thời điểm ngày 24/7/2023 bị thiệt hại: 10.000 đồng (mười nghìn đồng);

- 01 (một) cánh cửa gỗ, loại gỗ tràm có kích thước (1,9x0,7x0,035)m. Phía bên ngoài khung cửa có 03 vết khuyết, trầy xước bề mặt gỗ kích thước (0,09x0,16x0,01)m, thời điểm ngày 24/7/2023 bị thiệt hại: 20.000 đồng (hai mươi nghìn đồng);

- 01 (một) ổ khoá bằng kim loại, có tay cầm, nhãn hiệu “VIỆT TIỆP” có nhiều vết trượt xước, cong, nứt vỡ kích thước (0,17x0,11)m, tình trạng không 3 còn sử dụng được, thời điểm ngày 24/7/2023 bị thiệt hại 50.000 đồng (năm mươi nghìn đồng);

- 01 (một) cánh cửa sổ bằng gỗ, loại gỗ tràm bị hư hỏng như sau: 1(một) vết rách thủng phía trong cánh cửa có kích thước ( 0,18x 0,03); 01 (một) vết rách phía ngoài có kích thước ( 0,06x0,02)m. Thời điểm ngày 24/7/2023 bị thiệt hại 40.000 đồng (bốn mươi nghìn đồng);

- Khung ngang cửa sổ bằng gỗ, loại gỗ tràm kích thước (1,47x0,07x0,02)m, có 02 vết đứt, hình khe kích thước (0.04 x 0,03 x 0,015)m, thời điểm ngày 24/7/2023 bi thiệt hại: 20.000 đồng (hai mươi nghìn đồng).

Về trách nhiệm dân sự: Tổng giá trị tài sản bị thiệt hại theo kết luận định giá là: 410.000 đồng (Bốn trăm mười nghìn đồng). Quá trình điều tra chị Bùi Thị B là người bị hại không yêu cầu bồi thường gì. Bà Hoàng Thị T1 yêu cầu Nguyễn Danh L bồi thường thiệt hại giá trị tài sản làm hư hỏng là 3.000.000 đồng.(Ba triệu đồng). Đến nay bị cáo chưa bồi thường cho bà T1.

Đối với hành vi “Cố ý làm hư hỏng tài sản” theo kết luận định giá tài sản số: 33/KL-HDĐGTS ngày 3/8/2023 của hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Y kết luận có giá trị tài sản bị thiệt hại dưới 2.000.000 đồng (hai triệu đồng) nên không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi này. Bản thân L chưa có tiền án, tiền sự về tội này nên Công an huyện Y đã ra quyết định xử phạt hành chính L với số tiền 4.000.000 đồng (bốn triệu đồng) theo Điểm a, Khoản 2, Điều 15 Nghị định 144/2021/ NĐ - CP quy định xử phạt hành chính ngày 31 tháng 12 năm 202.

Tại cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Y Nguyễn Danh L đà khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Bản cáo trạng số 132/CT-VKS-YT ngày 13/11/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An truy tố bị cáo Nguyễn Danh L về tội: “Cố ý gây thương tích” theo điểm a, điểm i khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Danh T đã thừa nhận hành vi cố ý gây thương tích cho chị Bùi Thị B mà bị cáo thực hiện vào ngày 24/7/2023 tại nhà ông Bùi Ngọc BI và bà Hoàng Thị T1 (bố, mẹ đẻ chị B), trú tại xóm Đ, xã Đ, huyện Y là đúng như nội dung bản cáo trạng đã truy tố.

Tại phiên toà người bị hại không yêu cầu bồi thường thiệt hại và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án trình bày thực tế tiền sử xe hết 1.580.000 đồng, tiền sửa khóa 400.000 đồng,các cửa gỗ và khung cửa không sửa lại được vì vậy bà T1 vẫn giữ nguyên yêu cầu bồi thường thiệt hại.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Thành giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị hội đồng xét xử áp dụng điểm a, điểm i khoản 1 Điều 134; điểm i, s khoản 1,2 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt: Bị cáo Nguyễn Danh L từ 06 tháng đến 07 tháng tù, thời tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Về vật chứng và xử lý vật chứng:

- Chiếc kéo có kích thước được mô tả dài khoảng 20 cm, cán tay cầm màu đỏ, lưỡi bằng kim loại màu đen là công cụ thực hiện hành vi phạm tội quá trình điều tra đã truy tìm nhưng không thu hồi được.

- Đối với một số vật chứng khác thu giữ trong quá trình điều tra vụ án, quá trình điều tra Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Y đã xử lý vật chứng trả lại tài sản cho chủ sở hữu và người quản lý tài sản hợp pháp tài sản đó là đúng quy định của pháp luật.

Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại:

- Người bị hại không yêu cầu, nên miễn xét.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án yêu cầu bồi thường 3.000.000 đồng.(Ba triệu đồng). Tại phiên toà Bị cáo thỏa thuận bồi thường theo yêu cầu của bà T1 nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự, dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo nhất trí với bản Cáo trạng, không có ý kiến gì tranh luận với lời luận tội của Kiểm sát viên.

Bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến gì.

Bị cáo nhận thức và ăn năn hối cải hành vi phạm tội của mình, tại phiên tòa bị cáo cũng xin lỗi bà T1 và gia đình, xin lỗi chị B và các con đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và xin được hưởng án treo để sửa sai.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về các hành vi và quyết định tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Y, Điều tra viên và Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Thành, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi và quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Nội dung [2.1] Về hành vi phạm tội và tội danh của bị cáo: Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, quá trình tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy: Bị cáo Nguyễn Danh L đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã nêu, lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp các lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với các kết luận giám định tổn thương cơ thể trên người sống số 450/ KLTTCT-TTPY, ngày 03 tháng 8 năm 2023 của Trung tâm pháp y tỉnh N; Kết luận định giá tài sản số: 33/KL-HĐĐGTS ngày 03/8/2023 của hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Y và các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án đã được công bố và thẩm tra tại phiên tòa. Do đó Hội đồng xét xử có đủ căn cứ để xác định: khoảng 12 giờ 30 phút ngày 24/7/2023, tại nhà ông Bùi Ngọc B1 và bà Hoàng Thị T1 là bố, mẹ đẻ chị B, trú tại xóm Đ, xà Đ, huyện Y bị cáo Nguyễn Danh L đã có hành vi dùng tay tát 01 (một) cái vào mặt, đấm 01 (một) cái vào ngực chị B, thấy chị B đang cầm 01 (một) chiếc kéo đang dùng để cắt râu tôm Lương giật lấy chiếc kéo trong tay chị B rồi đâm 02 (hai) cái vào vùng vai trái chị B và gây tổn thương cơ thể của Bùi Thị B tại thời điểm giám định là: 03% (ba phần trăm).

Xét thấy, Xét hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, phạm tội với lỗi cố ý, đã trực tiếp xâm phạm đến sức khoẻ của người khác được pháp luật bảo vệ, sây mất trật tự trị an xã hội tại địa phương. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo là người trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo đã ngang ngược và vô cớ dùng tay tát 01 (một) cái vào mặt, đấm 01 (một) cái vào ngực bị hại, bị cáo giật lấy chiếc kéo trong tay bị hại rồi đâm 02 (hai) cái vào vùng vai trái bị hại. Chiếc kéo bị cáo sử dụng sây thương tích là loại hung khí nguy hiểm để cố ý sây ra thương tích cho bị hại. Do đó hành vi của bị cáo Nguyễn Danh L đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm a, điểm i khoản 1 Điều 134 của Bộ luật hình sự với mức hình phạt từ cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An truy tố bị cáo là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2.2] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Xét hành vi của bị cáo là đã coi thường những quy tắc trong cuộc sống, ngang ngược, cố tình sử dụng những nguyên cớ nhỏ nhặt để gây thương tích. Bản thân bị cáo và bị hại trước đây là vợ chồng nay đã ly hôn nhưng bị cáo tỏ ra ghen tuông vô cớ đánh đập và dùng hung khí nguy hiểm là chiếc kéo bằng kim loại để gây thương tích cho bị hại. Đây là hành vi nguy hiểm cho xã hội gây mất trật tự, trị an trên địa bàn và thể hiện sự coi thường pháp luật. Vì vậy, cần phải nghiêm khắc với bị cáo và có hình phạt tương xứng với hành vi của bị cáo gây ra mới có tác dụng răn đe giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[2.3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Bị cáo phạm tội không phải chịu tình tiết tăng nặng: Tại phiên Toà và quá trình điều tra, truy tố thấy bị cáo đã thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của mình,biết ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Sau khi phạm tội bị cáo đầu thú và hợp tác khai báo đầy đủ hành vi phạm tội của mình. Tại phiên toà người bị hại cũng đã đề nghị HĐXX giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm i,s khoản 1,2 điều 51 Bộ luật hình sự. Do đó cần cho bị cáo được hưởng những tình tiết giảm nhẹ nêu trên để giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

[2.4.] Về vật chứng, xử lý vật chứng:

- Chiếc kéo có kích thước được mô tả dài khoảng 20 cm, cán tay cầm màu đỏ, lưỡi bằng kim loại màu đen là công cụ thực hiện hành vi phạm tội quá trình điều tra đã truy tìm nhưng không thu hồi được.

- Đối với một số vật chứng khác thu giữ trong quá trình điều tra vụ án, quá trình điều tra Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Y đã xử lý vật chứng trả lại tài sản cho chủ sở hữu và người quản lý tài sản hợp pháp tài sản đó là đúng quy định của pháp luật.

[2.4.] Trách nhiệm dân sự: Người bị hại không yêu cầu bồi thường gì nên miễn xét.

Đối với thiệt hại do bị cáo gây ra cho bà Hoàng Thị T1. Quá trình điều tra bà T1 yêu cầu Nguyễn Danh L bồi thường thiệt hại giá trị tài sản làm hư hỏng là 3.000.000 đồng.(Ba triệu đồng). Theo kết luận định giá thì tổng giá trị tài sản bị thiệt hại do bị cáo gây ra là: 410.000 đồng (Bốn trăm mười nghìn đồng). Tuy nhiên tại phiên toà bị cáo thống nhất bồi thường theo yêu cầu của bị hại nên cần chấp nhận. Vì vậy cần chấp nhận theo yêu cầu bồi thường của bà T1 là phù hợp quy định pháp luật.

[2.5.] Về những vấn đề khác: Đối với hành vi “Cố ý làm hư hỏng tài sản” theo kết luận định giá tài sản số: 33/KT-HDDGTS ngày 3/8 / 2023 của hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Y kết luận có giá trị tài sản bị thiệt hại dưới 2.000.000 đồng (hai triệu đồng) nên không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi này. Bản thân T chưa có tiền án, tiền sự về tội này nên Công an huyện Y đã ra quyết định xử phạt hành chính L với số tiền 4.000.000 đồng (bốn triệu đồng) theo Điểm a, Khoản 2, Điều 15 Nghị định 144/2021/ NĐ-CP quy định xử phạt hành chính ngày 31 tháng 12 năm 2021 là có căn cứ và đúng quy định pháp luật.

[2.6.] Về mức hình phạt đối với bị cáo: Sau khi xem xét, đánh giá tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, đánh giá về nhân thân, lý lịch và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo. Hội đồng xét xử thấy bị cáo phạm tội chưa có tiền án, tiền sự; Bị cáo đã thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của mình, biết ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Sau khi phạm tội bị cáo đầu thú và hợp tác khai báo đầy đủ hành vi phạm tội của mình. Tại phiên toà người bị hại cũng đã đề nghị HĐXX giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Lẽ ra không nhất thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội cũng đủ răn đe và phòng ngừa nhưng xét thấy bị cáo phạm tội có hai tình tiết định khung là dùng hung khí nguy hiểm và có tính chất côn đồ. Ngoài ra các thiệt hại gây ra đối với tài sản của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án này bị cáo cũng chưa có thái độ bồi thường, khắc phục kịp thời, hành vi này tuy không bị truy tố nhưng cũng đã bị xử phạt vi phạm hành chính nhưng bị cáo cũng chưa chấp hành. Do đó nhất thiết phải cách ly bị cáo một thời gian mới đủ răn đe, phòng ngừa.

Từ những nhận xét, đánh giá trên đây Hội đồng xét xử sơ thẩm thấy cần chấp nhận đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Thành về quan điểm cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội.

[3.] Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự, dân sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí tòa án.

[4.] Về quyền kháng cáo bản án sơ thẩm: Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án hình sự sơ thẩm theo quy định tại điều 331 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về hình phạt:

Căn cứ vào điểm a, điểm i khoản 1 Điều 134; điểm i, s khoản 1,2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Danh L 06 (Sáu) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo thi hành án.

2. Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại:

- Người bị hại không yêu cầu bồi thường gì nên miễn xét.

- Căn cứ Điều 584, Điều 585, Điều 589, Điều 357 và Điều 468 của Bộ luật dân sự. Chấp nhận yêu cầu bồi thường thiệt hại của bà Hoàng Thị T1. Buộc bị cáo Nguyễn Danh L phải bồi thường tổng giá trị tài sản bị thiệt hại do bị cáo gây cho bà Hoàng Thị T1 số tiền 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với khoản tiền người thi hành án phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án, thì hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi suất của số tiền phải thi hành án, theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự.

Trường hợp quyết định này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

3. Án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a,c khoản 1, Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí tòa án, buộc bị cáo Nguyễn Danh L phải nộp: 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Các bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt có quyền kháng cáo lên Toà án cấp phúc thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

9
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 131/2023/HS-ST

Số hiệu:131/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Thành - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về