Bản án về tội cố ý gây thương tích số 125/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 125/2023/HS-PT NGÀY 03/08/2023 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 03 tháng 8 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 99/2023/TLPT-HS ngày 10 tháng 5 năm 2023 đối với bị cáo Nguyễn Quốc H do có kháng cáo của bị cáo và bị hại đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 29/2023/HS-ST ngày 28 tháng 3 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng.

- Bị cáo kháng cáo: NGUYỄN QUỐC H, sinh ngày: 15/7/1998 tại Đà Nẵng; Nơi ĐKTT: Tổ 07, thôn Hưởng Phước, xã Hòa Liên, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng; Nghề nghiệp: lao động phổ thông; trình độ học vấn: 09/12; dân tộc: Kinh; giới Th: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông (Không rõ) và bà Phạm Thị B (Còn sống). Bị cáo là con thứ 02 trong gia đình có 02 anh em. Bị cáo có vợ tên Nguyễn Thị H và 02 người con, con lớn nhất sinh năm 2018 và nhỏ nhất sinh năm 2020. Tiền án, tiền sư: Không. Nhân thân: không.

Bị cáo hiện đang tại ngoại (Có mặt tại phiên tòa).

- Người đại diện hợp pháp cho bị cáo Nguyễn Quốc H: là mẹ ruột của bị cáo Bà Nguyễn Thị B sinh năm 1970. Nơi cư trú: Tổ 7, thôn Hưởng Phước, xã Hòa Liên, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng. (Có mặt tại phiên tòa) - Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Quốc H: Luật sư Nguyễn Thành Đ, Thuộc đoàn luật sư TP Đà Nẵng. Bào chữa theo yêu cầu của bị cáo, (Có mặt tại phiên tòa).

- Bị hại kháng cáo: Ông Trần H Phi, sinh năm 1963. HKTT: Tổ 4, phường Thiện An, thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đăk Lăk. Trú tại Thôn Tân Ninh, xã Hòa Liên, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng, (Có mặt tại phiên tòa).

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại: ông Nguyễn Công T sinh năm 1995 và bà Trần Thị H sinh năm 1993 - Luật sư Công ty hợp danh FDVN thuộc đoàn luật sư thành phố Đà Nẵng (Bà H Có mặt, ông T vắng mặt).

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

+ Ông Phạm Văn T, sinh năm 1970. Địa chỉ: Thôn Hưởng Phước, xã Hòa Liên, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng (Có mặt tại phiên tòa).

+ Ông Phạm Viết H, sinh năm 1996. Địa chỉ: Thôn Hưởng Phước, xã Hòa Liên, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng (Có mặt tại phiên tòa).

+ Ông Nguyễn Phạm L, sinh năm 1993. Địa chỉ: Thôn Hưởng Phước, Xã Hòa Liên, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng (Có mặt tại phiên tòa).

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị: Ông Đoàn Văn Vũ - Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các T liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ 00 phút ngày 15/5/2022, ông Trần H Phi đang làm tại vườn trồng cây ăn quả, cây cảnh cho anh Đoàn Văn Vũ tại thôn Tân Ninh, xã Hòa Liên, huyện Hòa Vang, TP Đà Nẵng thì thấy đàn bò của ông Phạm Văn T vào khu vực đất trồng cây ăn quả, cây cảnh của mình để ăn. Thấy vậy, ông Phi cầm một cây rựa trên tay ném về phía đàn bò của T.

Lúc này, T đang trú mưa gần đó thì Phạm Viết H đang ở nhà của Nguyễn Phạm L cùng với Nguyễn Quốc H cùng trú tại thôn Hưởng Phước, xã Hòa Liên, huyện Hòa Vang, TP.Đà Nẵng gọi điện thoại cho T nói lùa bò về sớm để nH thì T nói là đang lùa bò nên chưa về được. Khi trời hết mưa, thấy đàn bò của mình vào rẫy của ông Phi nên T đi vào vườn lùa bò ra ngoài thì ông Phi nói “Mày lùa bò ra chớ để phá rẫy thì tạo đền chết”. Khi đang lùa bò T thấy chân sau bên trái của một con bò cái và hông của một con bò nhỏ bị thương, T hỏi ông Phi “Mày chặt bò tao phải không?” thì ông Phi nói “Bò của mày vô vườn tao chặt đó” thì T tiếp tục lùa bò đi ra ngoài.

H thấy ông T lùa bò về lâu nên rủ L, H chạy đến chỗ ông T để giúp ông T lùa bò về thì cả hai đồng ý. Khi đến nơi thì ông T đi vào vườn nói chuyện với ông Phi còn H, H, L đứng ngoài trông bò. Thấy ông T vào vườn lâu nên H rủ H, L vào vườn xem. Lúc này, L đi xung quanh vườn để xem cây hoa ngũ sắc, còn H đi đến chỗ T và ông Phi đang chỉ chỗ bò phá, H ngồi gần đó bấm điện thoại. Tại đây, trong lúc nói chuyện cãi nhau. H thấy vậy liền đứng dậy, nhặt cây gỗ trong vườn hình tròn, dài 90 cm, đường kính 11cm cầm trên tay trái đánh 01 cái trúng vào sườn bên trái ông Phi, làm ông Phi ngã xuống đất. Sau đó T can ngăn và yêu cầu H, L, H về, còn ông Phi nằm một lúc đi vào chòi và được gia đình đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện. Qua làm việc Nguyễn Quốc H đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số: 123/Tgt ngày 14/6/2022 của Trung tâm pháp y TP Đà Nẵng kết luận thương tích của ông Trần H Phi tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 23%.

Tại Bản kết luận giám định pháp y tâm thần số: 1546/KLGĐ ngày 26/8/2022 của Trung tâm pháp y tâm thần khu vực Miền trung kết luận đối với Nguyễn Quốc H như sau:

Trước thời điểm gây án: Hạn chế khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi.

* Tại thời điểm gây án: Hạn chế khả năng nhận thức và hạn chế khả năng điều khiển hành vi.

* Thời điểm hiện tại: Hạn chế khả năng nhận thức và hạn chế khả năng điều khiển hành vi.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 29/2023/HSST ngày 28/3/2023 của Tòa án nhân dân huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng đã quyết định:

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Quốc H phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

- Căn cứ: Điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, q, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Quốc H 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù được Th từ ngày bắt giam thi hành án.

Ngoài ra, Bản án còn tuyên về xử lý vật chứng, trách nhiệm dân sự, án phí và quyền kháng cáo.

Ngày 05/4/2023 bị cáo Nguyễn Quốc H có đơn kháng cáo với nội dung: Án sơ thẩm xử nặng, xin cấp phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt và cho hưởng án treo hoặc cải tạo không giam giữ cho bị cáo.

Ngày 11/4/2023 người bị hại ông Trần H Phi kháng cáo với nội dung: Kháng cáo phần trách nhiệm hình sự của bản án sơ thẩm vì bỏ lọt tội phạm đối với ông Phạm Văn T, Phạm Viết H, Nguyễn Phạm L.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng có quan điểm về việc giải quyết vụ án như sau: Tòa án nhân dân huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng đã xét xử bị cáo Nguyễn Quốc H về tội “Cố ý gây thương tích” theo khoản 2 Điều 255 Bộ luật hình sự là có cơ sở, đúng pháp luật. Xét mức án 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù mà cấp sơ thẩm áp dụng đối với bị cáo Nguyễn Quốc H là phù hợp, không nặng. Đồng thời tại phiên Tòa hôm nay bị cáo không bổ sung thêm tình tiết gì mới. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Quốc H, giữ nguyên án sơ thẩm. Đối với kháng cáo của người bị hại cho rằng cấp sơ thẩm bỏ lọt tội phạm đối với ông Phạm Văn T, Phạm Viết H, Nguyễn Phạm L là không đủ cơ sở, do đó đề nghị không chấp nhận kháng cáo của người bị hại ông Trần H Phi.

- Bị cáo Nguyễn Quốc H giữ nguyên nội dung đơn kháng cáo và xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo.

- Bị hại ông Trần H Phi giữ nguyên nội dung đơn kháng cáo và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét.

- Quan điểm bào chữa của luật sư Nguyễn Thành Đá cho bị cáo Nguyễn Quốc H như sau: Thống nhất về tội danh, điểm khoản và Điều luật mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử đối với bị cáo nên không có tranh luận về nội dung này; Tuy nhiên, luật sư cho rằng khi quyết định hình phạt Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng đối với bị cáo có phần nghiêm khắc, bởi lẽ bị cáo có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu, chưa có tiền án, tiền sự, có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, hoàn cảnh gia đình khó khắn, con còn nhỏ bệnh tật, vợ bị cáo cũng bị bệnh và thường xuyên bỏ nhà đi. Từ đó, luật sư đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo thể hiện Th nhân đạo, khoan hồng của pháp luật.

- Quan điểm của luật sư bà Trần Thị H - Luật sư Công ty hợp danh FDVn thuộc đoàn luật sư thành phố Đà Nẵng là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông Trần H Phi là người bị hại trình bày: Luật sư H cho rằng cơ quan điều tra chưa làm rõ dữ liệu cuộc gọi giữa ông T và H để xác định ông T có chủ động liên lạc cho H hay không và bắt nguồn của sự việc là bò ông T đi vào vườn ông Phi, ông T có nói với ông Phi “mày coi chừng đó biết tay tao” thể hiện động cơ của ông T ngay từ đầu. Đồng thời lời khai của L, H và một số người làm chứng có sự mâu thuẫn, khác nhau do đó những lời khai của họ không có đủ cơ sở làm chứng cứ. Yêu cầu hủy một phần Bản án số 29/2023/HSST ngày 28/3/2023 của Tòa án nhân dân huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng về phần trách nhiệm hình sự; Trả hồ sơ cho cơ quan có thẩm quyền để điều tra, xử lý về hành vi có dấu hiệu đồng phạm về tội “Cố ý gây thương tích” của ông Phạm Văn T (chủ mưu, cầm đầu), Phạm Viết H, Nguyễn Phạm L.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ các T liệu, kết luận giám định, các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, lời khai của bị cáo và kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Khoảng 15 giờ 00 phút ngày 15/5/2022, ông Trần H Phi đang làm tại vườn trồng cây ăn quả, cây cảnh cho anh Đoàn Văn Vũ tại thôn Tân Ninh, xã Hòa Liên, huyện Hòa Vang, TP Đà Nẵng thì thấy đàn bò của ông Phạm Văn T vào khu vực đất trồng cây ăn quả, cây cảnh của mình để ăn. Thấy vậy, ông Phi cầm một cây rựa trên tay ném về phía đàn bò của T. Ông T lúc đó đang trú mưa, khi thấy đàn bò của mình vào vườn thì đi lùa về và phát hiện bò của mình bị thương. Đồng thời H, L, H lúc này chạy xe lên tìm ông T để về nH sớm. Trong lúc ông T và Phi đang nói chuyện qua lại về việc bò vào vườn thì H, L, H đứng ngoài trông bò, do chờ lâu nên đi vào xem, khi đang thấy ông Phi và ông T tranh cãi qua lại thì H liền đứng dậy, nhặt cây gỗ trong vườn hình tròn, dài 90 cm, đường kính 11cm cầm trên tay trái đánh 01 cái trúng vào sườn bên trái ông Phi, làm ông Phi ngã xuống đất. T can ngăn và yêu cầu H, L, H về, còn ông Phi nằm một lúc đi vào chòi và được gia đình đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện.

H quả Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số: 123/Tgt ngày 14/6/2022 của Trung tâm pháp y TP Đà Nẵng kết luận ông Trần H Phi có tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 23%.

Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội: “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự là đúng pháp luật.

[2] Xét kháng cáo của bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt và hưởng án treo hoặc cải tạo không giam giữ, HĐXX nhận định như sau: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến sức khỏe của công dân. Nguyên nhân dẫn đến việc gây thương tích cho bị hại là ý thức chấp hành pháp luật kém, xem thường pháp luật, xem thường sức khỏe của người khác, chỉ vì mâu thuẫn nhỏ giữa ông T và ông Phi mà bị cáo có hành vi sử dụng vũ lực với người khác. Bản án sơ thẩm cũng đã đánh giá đầy đủ Th chất, mức độ hành vi phạm tội, áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà bị cáo được hưởng theo quy định pháp luật. Tại phiên tòa giai đoạn phúc thẩm bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ mới. Do đó, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo mà cần giữ nguyên quyết định về hình phạt của Bản án sơ thẩm là phù hợp.

[3] Xét kháng cáo của bị hại yêu cầu hủy một phần bản án sơ thẩm và trả hồ sơ để điều tra, xử lý hành vi của T, H, L vì cho rằng ông Phạm Văn T, Phạm Viết H, Nguyễn Phạm L là đồng phạm của Nguyễn Quốc H về tội “Cố ý gây thương tích”, HĐXX nhận định như sau: H, L, H mục đích đến tìm ông T là giúp ông T lùa bò về để đi nH. Ông T đi vào vườn nói chuyện với ông Phi thì H, L, H đi theo vào nhưng không có ý định để đánh ông Phi. Việc H dùng khúc gỗ đánh ông Phi là do H tự thực hiện. Việc ông Phi trình bày ông T là người chủ mưu, gọi điện, lên kế hoạch đánh ông Phi, giả vờ nói chuyện với ông Phi để ông không đề phòng rồi H đánh ông Phi là không có cơ sở và H, L, H, T không thừa nhận. Vì thế không có cơ sở cho rằng ông Phạm Văn T là chủ mưu, Nguyễn Phạm L, Phạm Viết H là đồng phạm của Nguyễn Quốc H trong vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị hại là phù hợp.

[4] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[5] Do không được chấp nhận kháng cáo, nên bị cáo Nguyễn Quốc H phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Quốc H và bị hại ông Trần H Phi, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

Căn cứ: Căn cứ vào điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, q, s, p khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Quốc H 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù Th từ ngày bắt giam thi hành án.

2. Về án phí: Căn cứ Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Nguyễn Quốc H phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

41
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án về tội cố ý gây thương tích số 125/2023/HS-PT

Số hiệu:125/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về