TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 3, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 123/2020/HS-ST NGÀY 18/11/2020 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 18 tháng 11 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 106/2020/HS-ST ngày 26 tháng 10 năm 2020, Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 503/2020/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:
NGUYỄN VĂN A, sinh năm: 1967 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Hộ khẩu thường trú: 90 Cư xá B, đường C, Phường D, Quận E, Thành phố Hồ Chí Minh; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: bảo vệ; Trình độ học vấn: 7/12 ; Con ông Nguyễn Văn H (chết) và bà Đào Thị H1 (chết); Vợ: Bà Võ Thị H2, sinh năm 1970; 01 con sinh năm 1994; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 06 tháng 11 năm 1997, bị Công an Quận 3 khởi tố bị can về tội “ Cố ý gây thương tích”, đến ngày 22 tháng 12 năm 1997 được đình chỉ điều tra vụ án và đình chỉ điều tra bị can do tỷ lệ thương tật nhẹ, bị hại đã làm đơn bãi nại, không cần thiết phải truy cứu trách nhiệm hình sự. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”(Có mặt).
Bị hại : Ông Trần Quốc H3, sinh năm 1969.
Địa chỉ: 633/9A Đường C1, Phường D1, Quận E1, Thành phố Hồ Chí Minh(vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 18 giờ ngày 04 tháng 6 năm 2020, ông Trần Quốc H3 đến nhà hàng Biển Dương tại số 205 Cách Mạng Tháng 8, Phường 4, Quận 3 dự tiệc sinh nhật cùng một số người bạn, trong đó có bị cáo Nguyễn Văn A (bạn 20 năm của 1 ông H3). Khoảng 20 giờ 00 phút cùng ngày, ông H3 đến chỗ bị cáo A đang ngồi để mời uống bia, ông H3 đứng sau lưng phía bên trái của bị cáo A, tay trái cầm ly bia còn tay phải vịn vào vai bên phải bị cáo A và chọc ghẹo. Lúc này, bị cáo A nói ông H3 nếu chọc ghẹo nữa thì sẽ đánh nhưng ông H3 vẫn tiếp tục chọc ghẹo. Do bực tức, bị cáo A đứng lên và xoay người qua bên trái, tay phải c ầm ly thủy tinh dùng để uống bia (dạng ly có quai, cao khoảng 12-15cm, đường kính khoảng 8-10cm) đánh thẳng vào mặt ông H3 gây chảy máu. Ông H3 được đưa đến bệnh viện 115 sơ cứu, khâu vết thương. Ngày 08 tháng 6 năm 2020, ông H3 đến Công an Phường 4, Quận 3 trình báo sự việc. Công an Phường 4, Quận 3 lập hồ sơ ban đầu và chuyển giao cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 3 xử lý. Tại Cơ quan Điều tra, bị cáo Nguyễn Văn A đã khai nhận toàn bộ hành vi như trên.
Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 548/TgT.20 ngày 03 tháng 7 năm 2020 của Trung tâm Pháp y Thành phố Hồ Chí Minh xác định về thương tích của ông H3: “Đa vết thương phần mềm đã được điều trị hiện còn:
+Một sẹo vùng trán kích thước 4,2x0,15cm.
+ Một sẹo vùng mũi – má phải kích thước 10,8x(0,1-0,2)cm.
+ Một sẹo đang đóng mày vùng gò má phải kích thước 2,3(0,1 -0,15)cm.
Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 14% (Mười bốn phần trăm)”. Các thương tích trên do vật tày có cạnh, vật sắc, vật sắc nhọn tác động gây ra”.
Tại Bản cáo trạng số 85/CT-VKS-HS ngày 26 tháng 10 năm 2020 Viện kiểm sát nhân dân Quận 3 đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn A về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn A thừa nhận đã có hành vi cố ý gây thương tích cho ông H3. Do đó,Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, có các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như: Thành khẩn khai báo, thật sự ăn năn hối cải, đã bồi thường thiệt hại cho bị hại và bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo do đó đề nghị áp dụng các điểm b, s khoản 1 Điều 51, Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 xem xét cho bị cáo được hưởng mức án dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, đồng thời xét thấy bị cáo Nguyễn Văn A có nơi cư trú rõ ràng, không có tiền án, tiền sự nên không cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội cũng đủ sức răn đe, giáo dục bị cáo thành công dân tốt sau này. Vì vậy, đề nghị xử phạt bị cáo từ 01(một) năm 06(sáu) tháng đến 02(hai) năm tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Cố ý gây thương tích”, thời gian thử thách từ 03 năm (ba) đến 04(bốn) năm tính từ ngày tuyên án.
Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã bồi thường thiệt hại cho b ị hại 50.000.000 đồng, bị hại không có yêu cầu gì thêm và có đơn bãi nại cho bị cáo.
Lời nói sau cùng bị cáo Nguyễn Văn A đã nhận thấy hành vi vi phạm pháp luật của mình và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 3, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 3, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo cũng như bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.
[2] Về tội danh: Khoảng 20 giờ 00 phút ngày 04 tháng 6 năm 2020, tại nhà hàng Biển Dương số 205 Cách Mạng Tháng 8, Phường 4, Quận 3, bị cáo A bực tức vì hành vi chọc ghẹo của bị hại H3 nên đã dùng tay phải cầm ly thủy tinh là hung khí nguy hiểm, đánh thẳng vào mặt bị hại H3 01 cái gây thương tích với tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên là 14%.
Căn cứ Bản kết luận giám định pháp y số 548/TgT.20 ngày 03 tháng 7 năm 2020 của Trung tâm pháp y Thành phố Hồ Chí Minh; Lời khai nhận tội của bị cáo tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa là hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng cùng với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở kết luận: Bị cáo Nguyễn Văn A đã phạm tội “Cố ý gây thương tích” thuộc trường hợp gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
[3] Về tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Xét bị cáo là người có đầy đủ năng lực nhận thức và điều khiển hành vi nên biết rõ việc xâm phạm đến sức khỏe của người khác là hành vi sai trái và sẽ bị pháp luật trừng trị nhưng do không kềm chế được bản thân từ va chạm nhỏ nên đã dùng ly bia thủy tinh là một loại hung khí nguy hiểm đánh vào mặt bị hại gây thương tích. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến sức khỏe của công dân được pháp luật bảo vệ và đồng thời xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Do vậy, bị cáo phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về hành vi mình đã gây ra. Tuy nhiên cũng xem xét hành vi của bị cáo chỉ là bộc phát trong lúc nóng giận do sự chọc ghẹo quá đà của bị hại, giữa bị hại và bị cáo có mối quan hệ bạn bè quen biết lâu năm để xem xét toàn diện mức độ hành vi phạm tội của bị cáo .
[4] Về lỗi: Thương tích 14% của bị hại do bị cáo Nguyễn Văn A thực hiện với lỗi cố ý.
[5] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo A không có tình tiết tăng nặng, có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; sau khi phạm tội bị cáo A đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại cho bị hại; Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo , do đó bị cáo được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
[6] Bị cáo có 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, vì vậy nghĩ cần áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 cho bị cáo hưởng mức án dưới mức thấp nhất của khung hình phạt theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 3 là đủ sức răn đe bị cáo.
[7] Xét bị cáo A có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, có nơi cư trú rõ ràng nên thấy không cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà vẫn có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo thành công dân tốt sau này. Vì vậy, áp dụng Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xem xét cho bị cáo được hưởng án treo theo sự đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 3 là có căn cứ.
[8] Về trách nhiệm dân sự: Do bị cáo và bị hại đã tự thỏa thuận và thực hiện xong nên tòa miễn xét.
[9] Vật chứng của vụ án: Không thu hồi được.
[10] Về án phí: bị cáo A phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 54; Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ, sung năm 2017; Khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Căn cứ Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25 tháng 11 năm 2015 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn A đã phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn A 01 (một) năm 06(sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 03 (ba) năm, tính từ ngày tuyên án.
Giao bị cáo Nguyễn Văn A cho Ủy ban nhân dân Phường 1, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo Luật thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
Bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm ngàn) án phí hình sự sơ thẩm.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Bị hại được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tống đạt hợp lệ hoặc niêm yết bản án.
Đã giải thích chế định án treo cho bị cáo
Bản án về tội cố ý gây thương tích số 123/2020/HS-ST
Số hiệu: | 123/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận 3 - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 18/11/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về