Bản án về tội cố ý gây thương tích số 122/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 122/2022/HS-PT NGÀY 13/06/2022 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 13 tháng 6 năm 2022, tại Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 269/2021/TLPT-HS ngày 22 tháng 12 năm 2021, do có kháng cáo của bị cáo Trà Văn T đối với đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 367/2021/HS-ST ngày 18 tháng 11 năm 2021 của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương.

- Bị cáo có kháng cáo:

Trà Văn T sinh năm 1983 tại tỉnh Hậu Giang; nơi đăng ký thường trú: ấp T, xã T, huyện P, tỉnh Hậu Giang; nơi đăng ký tạm trú: A5/3 khu phố B, phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ văn hóa (học vấn): lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trà Văn K sinh năm 1947 và bà Lê Thị B sinh năm 1947, có vợ và có 02 người con; tiền án, tiền sự: không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 09 tháng 5 năm 2021, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo: Ông Phạm Tuấn A, Luật sư của Công ty Luật TNHH MTV B.C.N, thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh, có mặt.

Ngoài ra, còn có 01 bị hại, 01 người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án do không kháng cáo, không bị kháng nghị và không liên quan đến kháng cáo.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Giữa bà Võ Thị T và bà Thái Ngọc Cẩm N có xảy ra mâu thuẫn nên bà T nhờ bà Trần Thị B dẫn đến nói chuyện với bà Nguyên. Khoảng 21 giờ 10 phút ngày 08 tháng 5 năm 2021, Trần Thị B cùng con rể là Tào Văn N, Lê Văn Tr, Huỳnh Ka L và bà T đi đến ki ốt của Nguyên tại địa chỉ A5/3 khu phố B, phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương. Tại đây giữa N và T xảy ra cự cãi, trong lúc nói chuyện N dùng tay chỉ vào mặt của T nên L nói “có gì từ từ nói”, N trả lời “tôi nói chuyện với em tôi, tôi chỉ chứ có làm gì đâu” và dùng tay gạt L ra. Lúc này, T ở phía ngoài vào dùng tay đánh N nhưng N né được. T lao vào đánh N tiếp thì N lấy 01 cây gỗ đánh trả lại Tr nên Trà Văn T (chồng N) can ngăn nhưng không được nên lao vào và đánh nhau với Tr. Trong lúc đánh nhau T nhìn thấy bên phải góc tường cạnh giá võng trên nền gạch có 01 con dao dài 25cm cán gỗ, mũi nhọn nên cầm lấy dao chém về phía Tr, Tr đưa tay lên đỡ nên T chém trúng cổ tay của Tr làm Tr bị thương. Thấy trống cầm dao, L chạy sang ki ốt đối diện lấy 01 cây tuýp bằng kim loại và quay lại thì thấy Tr chảy máu, T đang cầm dao đứng ở cửa ki ốt nên L cầm cây tuýp đuổi đánh T và N nhưng cả hai bỏ chạy được. Sau đó L cùng người dân đưa Tr đi cấp cứu, cùng ngày Lê Văn Tr có đơn trình báo và yêu cầu khởi tố vụ án hình sự gửi Công an phường T.

Bản Kết luận giám định về thương tích 331/2021/GĐPY ngày 17 tháng 6 năm 2021, Trung tâm Pháp y Sở y tế tỉnh Bình Dương kết luận:

Dấu hiệu chính qua giám định: Vết thương mặt trước cổ tay trái 7 x 0,2cm, đứt bó mạch thần kinh trụ, thần kinh giữa, gân gan tay dài, đã phẫu thuật nối thần kinh, nối gân cơ, sẹo lành. Đo điện cơ: Tổn thương dây thần kinh giữa đã hồi phục, tổn thương dây thần kinh trụ trái hồi phục chưa hoàn toàn.

Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 22%.

Cơ chế hình thành vết thương: Vết thương mặt trước cổ tay trái: Chiều nghiêng xuống khoảng 40 độ từ trái sang phải, hướng từ trước ra sau, bờ sắc gọn, khả năng do vật sắc gây ra.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 367/2021/HS-ST ngày 18 tháng 11 năm 2021 của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương đã quyết định:

Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134; Điều 47, điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), Xử phạt bị cáo Trà Văn T 03 (ba) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 09 tháng 5 năm 2021.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 30 tháng 11 năm 2021, bị cáo T có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương phát biểu ý kiến: Đơn kháng cáo của bị cáo thực hiện trong thời hạn luật định. Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở xác định hành vi phạm tội của bị cáo như cấp sơ thẩm đã xét xử đối với bị cáo là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Khi thấy vợ bị cáo bị đánh, vợ bị cáo đã dùng cây chống trả, bị cáo không xử sự phù hợp mà lại dùng hung khí nguy hiểm tấn công gây thương tích cho bị hại. Tuy nhiên, trong vụ án, bị hại có lỗi đánh vợ bị cáo trước, bị cáo đã tác tác động gia đình bồi thường tiền thuốc, viện phí cho bị hại và bị hại có yêu cầu xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nhưng cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo mức hình phạt 03 (ba) năm 03 (ba) tháng tù là nặng. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm giảm hình phạt cho bị cáo từ 06 (sáu) tháng đến 01 (một) năm tù.

Quan điểm của người bào chữa cho bị cáo thống nhất đánh giá của đại diện Viện kiểm sát về mức hình phạt mà cấp sơ thẩm đã quyết định cho bị cáo và xác định nguyên nhân, điều kiện hoàn cảnh dẫn đến việc bị cáo phạm tội, cho rằng bị cáo phạm tội cũng có 01 phần lỗi của bị hại, do chống trả lại việc đông người đến nhà bị cáo trong đêm khuya và tấn công vợ bị cáo, bị cáo chống trả quá mức nên đề nghị áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ tại điểm c khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 54, Điều 65 của Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017) xử phạt bị cáo 02 (hai) năm tù và cho bị cáo được hưởng án treo để tạo điều kiện cho bị cáo có cơ hội hòa nhập xã hội.

Bị cáo nói lời nói sau cùng: mong Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Kháng cáo của bị cáo trong thời hạn luật định, hợp lệ nên vụ án được xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

[2] Quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương, hành vi của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử sơ thẩm thực hiện việc điều tra, truy tố và xét xử sơ thẩm đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[3] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Tòa án cấp sơ thẩm xác định. Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án nên có đủ cơ sở kết luận: vào khoảng 21 giờ 10 phút ngày 08 tháng 5 năm 2021 tại địa chỉ A5/3 khu phố B, phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương, Trà Văn T có hành vi sử dụng dao là hung khí nguy hiểm chém gây thương tật tỷ lệ cho Lê Văn Tr là 22%. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017). Như vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội danh trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[4] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến sức khỏe của người khác, gây mất trật tự trị án xã hội, bị cáo là người có đầy đủ năng lực hành vi, chỉ vì thấy vợ mình bị đánh, bị cáo không tìm cách ứng xử phù hợp mà sử dụng dao là hung khí nguy hiểm gây thương tích cho bị hại thể hiện ý thức xem thường pháp luật và bất chấp hậu quả.

[5] Bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo không cung cấp thêm được tình tiết giảm nhẹ mới. Tuy nhiên, trong vụ án, bị hại có lỗi đánh vợ bị cáo trước, bị cáo đã tác tác động gia đình bồi thường tiền thuốc, viện phí cho bị hại và bị hại có yêu cầu xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nhưng cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo mức hình phạt 03 (ba) năm 03 (ba) tháng tù là và chưa phù hợp với tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Do đó, có căn cứ chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo về giảm nhẹ hình phạt.

[6] Bị cáo kháng cáo xin được hưởng án treo. Xét thấy, khi vợ bị cáo bị bị hại đánh bằng tay không, vợ bị cáo đã dùng cây chống trả lại bị hại, bị cáo không xử sự phù hợp mà lại dùng hung khí nguy hiểm tấn công gây thương tích cho bị hại, gây mất trật tự trị an tại địa phương, việc không cách ly bị cáo ra ngoài xã hội sẽ gây nguy hiểm và không đáp ứng được công tác phòng, chống tội phạm tại địa phương nên không cho bị cáo hưởng án treo theo quy định tại Điều 65 của Bộ luật Hình sự. Do đó, không có căn cứ chấp nhận kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo.

[7] Quan điểm của Viện kiểm sát về việc đề nghị chấp nhận một phần kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và mức phạt đề nghị giảm đối với bị cáo là có căn cứ.

[8] Quan điểm của người bào chữa đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo là phù hợp, riêng đề nghị cho bị cáo được hưởng án treo là không phù hợp.

[9] Kháng cáo của bị cáo được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định tại Điều 135, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, điểm b khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 344, Điều 345, điểm b khoản 1 Điều 355 và Điều điểm c, khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015,

1. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa Bản án số: 367/2021/HS-ST ngày 18 tháng 11 năm 2021 của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương về hình phạt.

Căn cứ Điểm đ khoản 2 Điều 134; Điều 47, điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), Xử phạt bị cáo Trà Văn T 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”, thời hạn tù tính từ ngày 09 tháng 5 năm 2021.

2. Về án phí hình sự phúc thẩm: bị cáo không phải nộp.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

318
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 122/2022/HS-PT

Số hiệu:122/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về