TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH ĐỊNH
BẢN ÁN 12/2024/HS-PT NGÀY 26/01/2024 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 26 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đ xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 04/2024/TLPT-HS ngày 08 tháng 01 năm 2024 đối với bị cáo Nguyễn Thị Thu N do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 182/2023/HS-ST ngày 28 tháng 11 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Q, tỉnh Đ.
- Bị cáo có kháng cáo:
Nguyễn Thị Thu N, sinh ngày 14/5/1972 tại TP Q, Đ; nơi cư trú: Tổ F, KV H, P. N, TP ., tỉnh Đ; Giới tính: Nữ; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ văn hóa: 6/12; Cha: Ông Nguyễn Văn S, sinh năm: 1951 (chết), mẹ là bà Phan Thị Kim H, sinh năm 1950; Chồng: Dương Văn K, sinh năm: 1974; có 03 người con: lớn nhất sinh năm 1995, nhỏ nhất sinh năm 2002; Tiền án, tiền sự: Không; Bị áp dụng biện pháp ngăn chặn: Cấm đi khỏi nơi cư trú; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Do có mâu thuẫn trong việc thừa kế tài sản giữa vợ chồng Dương Văn T, bà Nguyễn Thị T1 với vợ chồng Dương Văn K, Nguyễn Thị Thu N nên sáng ngày 19/4/2023, Nguyễn Thị Thu N điều khiển xe mô tô biển số 77S-xxxx một mình đến nhà Nguyễn Thị T1 đứng trước cổng chửi bới. T1 đang quét sân thì nghe thấy N chửi nên cầm chổi ra đứng trước cổng chửi lại. N hỏi: “Tại sao bà đánh chồng tôi”. T1 nói lại: “Hôm qua chồng mầy về quậy, giờ mày về quậy nữa phải không?”, đồng thời bà T1 đưa cây chổi về phía N. Nguyệt nắm được cây chổi nên kéo bà T1 về phía mình rồi nắm đầu tóc bà T1. Ông Dương Văn T đứng gần thấy vậy nên chạy lại ôm đẩy Nguyễn Thị Thu N để can ngăn. Nguyễn Thị Thu N tung ra, chạy lại gần nơi để xe mô tô của mình bên ngoài hàng rào nhà bà T1 nhặt lấy ba mảnh ngói quay lại đứng trước cổng ném về phía bà T1, trúng vào vùng mặt, tay trái bà T1 gây thương tích. Thấy T1 bị thương tích chảy máu nên N bỏ đi.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 182/2023/HS-ST ngày 28 tháng 11 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Q, tỉnh Đ đã quyết định:
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Thu N phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 134; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51, Điều 54 của Bộ luật Hình sự;
Xử phạt bị cáo Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Thu N 04 (Bốn) tháng tù, thời hạn tính từ ngày bắt đi thi hành án.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo của những người tham gia tố tụng.
Ngày 11.12.2023, bị cáo Nguyễn Thị Thu N kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên toà, Kiểm sát viên đề nghị quan điểm giải quyết vụ án: Chấp nhận kháng cáo của bị cáo, đề nghị giữ nguyên hình phạt tù và cho bị cáo được hưởng án treo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo khai nhận hành vi phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với các tài liệu khác có trong sơ vụ án, do đó HĐXX có đủ căn cứ để xác định:
Giữa bị cáo và bị hại có quan hệ chị em dâu, do có mâu thuẫn trong việc thừa kế tài sản và bị cáo N cho rằng bà T1 đã đánh chồng mình là ông Dương Văn K, nên ngày 19/4/2023 bị cáo N đến nhà bà Nguyễn Thị T1 chửi bới và có hành vi dùng 03 mảnh ngói, là hung khí nguy hiểm, ném trúng bà T1 gây thương tích với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 10%. Cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” là có căn cứ, đúng pháp luật.
[2] Xét kháng cáo của bị cáo của bị cáo Nguyễn Thị Thu N, Hội đồng xét xử nhận thấy:
Cấp sơ thẩm đã xem xét toàn bộ tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội; căn cứ vào tình tiết định khung hình phạt; các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để xử phạt bị cáo mức hình phạt tù đã tuyên là phù hợp với các quy định của pháp luật. Tại phiên tòa, xét thấy bị cáo có 03 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s, i khoản 1 Điều 51 BLHS. Bị cáo đã bồi thường toàn bộ thiệt hại là 32.500.000 đồng cho bị hại và được bị hại bãi nại. Bị cáo phạm tội lần đầu, nhân thân tốt, bị cáo có đủ điều kiện được áp dụng Điều 65 BLHS nên chấp nhận kháng cáo của bị cáo và đề nghị của vị đại diện VKS cho bị cáo được hưởng án treo.
[3] Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355; điểm e khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự, chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm.
Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 134; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 65 của Bộ luật Hình sự;
Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Thu N 04 (Bốn) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng tính từ ngày tuyên án phúc thẩm.
Giao bị cáo Nguyễn Thị Thu N cho UBND phường N, thành phố Q, tỉnh Đ giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
2. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Thị Thu N không phải chịu án phí HSPT.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội cố ý gây thương tích số 12/2024/HS-PT
Số hiệu: | 12/2024/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bình Định |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 26/01/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về