TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH KHÁNH HÒA
BẢN ÁN 12/2024/HS-PT NGÀY 01/02/2024 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Trong các ngày 29, 30-01-2014 và 01-02-2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa mở phiên tòa phúc thẩm công khai xét xử vụ án hình sự thụ lý số 129/2023/TLPT-HS ngày 30-10-2023 đối với bị cáo Hồ Xuân C do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 262/2023/HS-ST ngày 18-9-2023 của Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa.
- Bị cáo Có kháng cáo:
Hồ Xuân C, sinh năm 1983 tại huyện H, tỉnh Nghệ An; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Căn hộ 210 Chung cư A, số C T, phường V, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa; Chỗ ở trước khi bị bắt: Căn hộ A24.04 Chung cư P, đường V, phường V, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa; Nghề nghiệp chức vụ trước khi phạm tội: Cán bộ, thiếu tá tại Phòng Cảnh sát kinh tế Công an tỉnh K; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Hồ Xuân T (sinh năm 1956) và bà Nguyễn Thị T1 (sinh năm 1958); Có vợ là Hoàng Thị T2 (sinh năm 1984, đã ly hôn) và có 01 con sinh năm 2014; Tiền án: không, tiền sự: không; bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 29-12-2022; Có mặt.
- Người bào chữa cho bị cáo Hồ Xuân C:
1. Luật sư Nguyễn Văn P, Văn phòng luật sư Nguyễn Văn P thuộc Đoàn luật sư tỉnh K; Địa chỉ: Tổ dân phố D, phường N, thị xã N, tỉnh Khánh Hòa. Có mặt.
2. Luật sư Trần Hồng P1 và Luật sư Ngô Thị Thu H, Công ty L1, thuộc Đoàn luật sư Thành phố H; Địa chỉ: Tầng C, khu văn phòng, Tòa F, ngõ E đường L, phường M, quận N, Thành phố Hà Nội. Có mặt.
- Bị hại: Ông Trần Văn V, sinh năm 1972 Nơi cư trú: Số D đường Đ, phường P, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa. Có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Bà Từ Huyền V1, sinh năm 1973 Nơi cư trú: số D đường Đ, phường P, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa. Có mặt.
- Người làm chứng:
1. Ông Lê Nguyễn Trường G. Có mặt.
2. Ông Từ Công M. Có mặt.
3. Ông Tô Tiến D. Có mặt.
4. Ông Đồng Xuân Đ. Có mặt.
5. Ông Nguyễn Minh H1. Vắng mặt.
6. Chị Phan Thị Hồng N. Vắng mặt.
7. Chị Phan Thị Huyền T3. Vắng mặt.
8. Chị Ngô Thị Thanh T4. Vắng mặt.
9. Chị Nguyễn Thị Huyền T5. Vắng mặt.
10. Chị Nguyễn Thị Huyền T6. Vắng mặt.
11. Anh Lê Danh. Vắng mặt.
12. Ông Nguyễn Tuấn H2. Vắng mặt.
13. Anh Trần Ngọc H3. Vắng mặt.
14. Anh Phạm Ngọc T7. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 17 giờ ngày 12-10-2021, tại phòng Vip 1, nhà hàng G1, số B đường C, phường V, thành phố N, Hồ Xuân Cải tổ c tiệc mừng sinh nhật cho ông Nguyễn Minh H1. Tham gia buổi tiệc có: Hồ Xuân C, Nguyễn Minh H1, Từ C, Tô Tiến D, Đồng Xuân Đ, Nguyễn Đức L, Đinh Duy P2, Lê Nguyễn Trường G, Trần Văn V và một số nhân viên phục vụ của quán. Sau đó, L, P2 về trước. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày, giữa Hồ Xuân C và Từ C, Trần Văn V, Lê Nguyễn Trường G xảy ra xích mích nên mọi người gọi thanh toán tiền để kết thúc buổi tiệc. Khi nhân viên của quán G2 đem phiếu tính tiền đến thì C đề nghị Vũ góp tiền để trả. Lúc này, M và mọi người không đồng ý để V góp tiền vì V là khách mời nên C nói Đ góp thêm để thanh toán. Sau đó, Lê Nguyễn Trường G và Hồ Xuân C cùng đứng dậy, to tiếng, cãi vã nhau, thì được Tô Tiến D và Đồng Xuân Đ can ngăn, trong đó, Tô Tiến D đẩy Lê Nguyễn Trường G ra phía cửa ra vào, đứng chắn lại nhằm không cho G lại gần Cải. Cùng lúc này, Trần Văn V rời vị trí ngồi của mình, tiến đến gần Hồ Xuân C để cãi nhau với C. Thấy vậy, Từ Công Minh đứng dậy, đến chỗ C và V đang đứng, nhằm mục đích can ngăn cả hai. Thấy M đứng dậy, Đồng Xuân Đ sợ M đến đánh nhau với C nên liền đến vị trí góc bàn, phía trong tiếp giáp với vị trí đứng của Cải và V đang đúng, dùng hai tay ôm, ngăn không cho M tiến đến chỗ C. Trong lúc cãi nhau, C bất ngờ dùng tay cầm lấy ly thủy tinh, loại quai, đập vào vùng mặt V, làm V loạng choạng, lùi lại rồi té ngã xuống đất, bất tỉnh. Cải tiếp tục dùng tay lấy tô sứ ném về phía G, nhưng không trúng rồi bị G lao vào, khống chế và dùng tay đánh 01 cái vào mặt C. Sau đó, mọi người đưa Trần Văn V đi cấp cứu tại bệnh viện.
* Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 379/TgT-TTPY ngày 14-12-2021 của Trung tâm pháp y tỉnh K tỷ lệ thương tích của ông Trần Văn V là 44% (Bốn bốn phần trăm), tác nhân: vật tày, cơ chế: ngoại lực tác động gián tiếp, vết thương có gây nguy hiểm đến tính mạng.
- 01 sẹo kích thước trung bình từ trán- đỉnh- chẩm-thái dương đến trước tai phải. Tỷ lệ thương tật 02%.
- Tụ máu dưới màng cứng. Tỷ lệ thương tật 08%.
- Xuất huyết dưới nhện. Tỷ lệ thương tật 08%.
- Khuyết sọ đường kính 9,5cm bán cầu não phải, đáy phập phồng. Tỷ lệ thương tật 33%.
* Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 819/C09B ngày 15-02-2022 của Phân viện Khoa học Hình sự tại TP Hồ Chí Minh kết luận tỷ lệ thương tích của ông Trần Văn V là 44% (Bốn bốn phần trăm).
- Sẹo mổ: 02%.
- Máu tụ dưới màng cứng: 08%.
- Xuất huyết dưới nhện: 08%.
- Dấu mổ sọ bán cầu não phải: 33%.
* Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 820/C09B ngày 18-02- 2022 của Phân viện Khoa học hình sự tại TP Hồ Chí Minh kết luận: Chấn thương sọ não kín: máu tụ dưới màng cứng bán cầu phải/Dập xuất huyết não trán-thái dương phải. Xuất huyết khoang dưới nhện. Thương tích của ông Trần Văn V có đặc điểm phù hợp do tác động tương hỗ với vật tày gây ra.
* Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 108/22/TgT ngày 18-10- 2022 của V3 kết luận:
- Sưng nề má trái và chẩm trái, tụ máu dưới màng cứng bán cầu phải, dập xuất huyết não trán thái dương phải đã được phẫu thuật sọ não.
- Khám hiện tại vùng má trái không còn dấu vết thương tích. Vùng trán-thái dương định phải có sẹo phẫu thuật.
- Ly bia thủy tinh mà cơ quan điều tra gửi giám định gây ra được thương tích tại vùng má trái ông Trần Văn V. Không xác định được do đập hay ném ly bia thủy tinh vào má trái.
- Trường hợp dùng ly bia thủy tinh đánh (đập hoặc ném) vào má trái ông V khiến ông V bị té ngã ngửa về sau có thể gây được thương tích sưng nề má trái và chẩm trái, tụ máu dưới màng cứng bán cầu, dập xuất huyết não trán thái dương phải.
Bản án hình sự sơ thẩm số 262/2023/HS-ST ngày 18-9-2023 của Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa đã áp dụng điểm c khoản 3 (viện dẫn điểm a, i khoản 1) Điều 134; điểm b, v khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Hồ Xuân C 06 (S) năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Về trách nhiệm dân sự: buộc bị cáo Hồ Xuân C phải có trách nhiệm bồi thường cho anh Trần Văn V số tiền 113.000.000 đồng (Một trăm mười ba triệu đồng). Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định xử lý vật chứng, về án phí và quyền kháng cáo theo quy định.
Ngày 19-9-2023, Hồ Xuân C kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án: Ngày 19-9-2023, bị cáo Hồ Xuân C có đơn kháng cáo kêu oan, Đơn kháng cáo trong hạn luật định nên có cơ sở xem xét theo thủ tục phúc thẩm. Quá trình tố tụng, bị cáo C không nhận tội, cho rằng thương tích của Trần Văn V không do bị cáo gây ra. Lời khai của bị cáo C, bị hại V và các nhân chứng có mặt tại phiên tòa phúc thẩm mâu thuẫn với lời khai có tại hồ sơ và mâu thuẫn nhau nên cần tiếp tục điều tra làm rõ. Về thẩm quyền điều tra, xét xử: Công văn số 2588/PX01-QLCB ngày 05-12-2022 của Phòng Tổ chức cán bộ Công an tỉnh K có nội dung Hồ Xuân C không còn đảm nhiệm chức danh Điều tra viên kể từ ngày 20-4-2021, vì thuộc trường hợp đương nhiên miễn nhiệm chức danh điều tra viên khi được điều động, phân công sang lĩnh vực khác. Tại phiên tòa, bị cáo khai bị cáo được bổ nhiệm điều tra viên và thẻ điều tra viên có giá trị đến ngày 22-9-2024; bị cáo Công tác tại phòng PC03; Lãnh đạo phòng phân công bị cáo Công tác tại đội 2 nhưng vẫn nhận phụ cấp điều tra viên 15%/tháng và vẫn thực hiện các hoạt động điều tra theo ủy thác điều tra theo sự phân công của lãnh đạo. Tại hồ sơ chưa có tài liệu nào để xác định lời khai nêu trên của bị cáo là đúng sự thật. Do đó, cần phải điều tra làm rõ để xác định thẩm quyền điều tra, xét xử vụ án. Về bồi thường dân sự: Bản án sơ thẩm tuyên bị cáo đã hỗ trợ, bồi thường cho bị hại số tiền 153.000.000 đồng, bị cáo C tiếp tục bồi thường cho bị hại số tiền 113.000.000 đồng. Tại phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm, bị cáo không thừa nhận số tiền 153.000.000 đồng là tiền bồi thường, khắc phục hậu quả cho bị hại mà là tiền bị cáo ứng đưa cho bị hại theo chỉ đạo của lãnh đạo phòng. Việc Bản án sơ thẩm áp dụng điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự cho bị cáo là không đúng pháp luật. Ngoài ra, khi ông V bị chấn thương đưa đi cấp cứu tại bệnh viện, nhân chứng M1 khai tại bệnh viện các ông M1, D, G, Đ đã bàn nhau thống nhất nói là ông V bị trượt lon bia trong bàn nhậu rồi té. Sau đó, nhân chứng M1 đã báo cho bà Từ Huyền V1 (là vợ của ông V) là ông V đang cấp cứu tại bệnh viện do trượt lon bia té như đã bàn bạc. Tại phiên tòa phúc thẩm, bà V1 (người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan) khai chi phí đưa ông V đi giám định lại tại Hà Nội như: tiền bồi dưỡng giám định viên, tiền vé máy bay cho điều tra viên do gia đình bà chi trả. Những nội dung này cũng cần điều tra làm rõ. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa căn cứ điểm c khoản 1 Điều 355; điểm b, c khoản 1 Điều 358 của Bộ luật Tố tụng hình sự, hủy Bản án hình sự sơ thẩm số 262/2023/HSST ngày 18-9-2023 của Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa để điều tra lại.
- Các vị luật sư bào chữa cho bị cáo Hồ Xuân C trình bày: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên hủy toàn bộ Bản án hình sự sơ thẩm số 262/2023/HS-ST ngày 18-9- 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa để điều tra, truy tố, xét xử lại vì quá trình điều tra, truy tố, xét xử của cấp sơ thẩm có vi phạm nghiêm trọng về tố tụng và việc điều tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ. Cụ thể: Có vi phạm về thẩm quyền điều tra. Vi phạm về quyền được bào chữa của bị cáo. Việc hỏi cung bị can không được ghi âm, ghi hình theo quy định của pháp luật. Có tài liệu trong hồ sơ không đóng bút lục, có bút lục bị sửa chữa, tẩy xóa. Giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm không đúng quy định. Thu giữ vật chứng vụ án không bảo đảm quy định của pháp luật. Vi phạm quy định về giám định lại và chi phí giám định. Việc khám nghiệm hiện trường, thực nghiệm điều tra không chứng minh được diễn biến hành vi của đối tượng. Quá trình điều tra, truy tố, xét xử tại phiên tòa sơ thẩm và phiên tòa phúc thẩm bị cáo C không thừa nhận hành vi phạm tội, lời khai của bị hại, người làm chứng bất nhất và còn nhiều mâu thuẫn nhưng Cơ quan điều tra không cho đối chất làm rõ, không đủ cơ sở để kết tội bị cáo.
- Bị cáo Hồ Xuân C xác định nội dung kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm và yêu cầu hủy bản án sơ thẩm. Bị cáo trình bày: Yêu cầu thay đổi Thẩm phán Lê Thúy P3 vì có thể không vô tư, khách quan khi giải quyết vụ án. Bị cáo thống nhất ý kiến Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Khánh Hòa và các vị luật sư về việc hủy bản án sơ thẩm để điều tra, xét xử lại. Thời điểm xảy ra vụ việc bị cáo vẫn đang thực hiện nhiệm vụ của Điều tra viên như thực hiện ủy thác điều tra của Công an thành phố H; quá trình điều chuyển công tác của bị cáo là trong nội bộ phòng chứ không phải điều chuyển sang công việc khác. Bị cáo không bồi thường cho bị hại, mà chỉ là hỗ trợ theo sự chỉ đạo của lãnh đạo đơn vị nên yêu cầu bà V1 trả lại số tiền 153.000.000 đồng. Đề nghị thay đổi biện pháp ngăn chặn cho bị cáo và xem xét xử lý những người đã gây thương tích cho bị cáo vào ngày 12-10-2021.
- Bị hại Trần Văn V trình bày: Yêu cầu giữ nguyên bản án sơ thẩm và không đồng ý với ý kiến của bị cáo là bị oan.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Từ Huyền V1: Không đồng ý hủy bản án sơ thẩm; không đồng ý trả 153.000.00 đồng cho bị cáo vì đây là tiền của anh em Phòng PC03 hỗ trợ gia đình bà.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Kháng cáo của bị cáo Hồ Xuân C trong thời hạn quy định của pháp luật nên vụ án được xét xử phúc thẩm.
[2] Căn cứ Điều 49, Điều 53 Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu thay đổi Thẩm phán Lê Thúy P3 của bị cáo Hồ Xuân C.
[3] Bị cáo Hồ Xuân C khai tại phiên tòa phúc thẩm “khi bị cáo đang nói lại ông Trần Văn V thì ông Từ Công M lao vào về phía bên trái dùng tay phải đấm vào đầu bị cáo, còn tay trái của ông M giật về sau, làm cùi chỏ ông M trúng vào cằm và vùng má trái của ông V làm ông V té bật ngửa về phía sau, đầu đập vào kệ lục giác treo trên tường, sau đó ông V té xuống nền đất”. Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo khai “khi M lao vào đánh bị cáo vô tình giật cùi chỏ trúng mặt anh V khi anh V can ngăn việc M đánh bị cáo” (BL 602). Tại Cơ quan điều tra, bị cáo không thừa nhận việc gây thương tích cho bị hại.
[4] Lời khai bị hại Trần Văn V: Tại phiên tòa phúc thẩm, ông V khai “Cải quơ ly bia thì ông M hụp xuống, ly bia trúng vào phía trái đầu ông V”. Tại phiên tòa sơ thẩm, ông V khai “bị cáo C dùng ly thủy tinh lao vào đánh M nhưng Minh n, không trúng M và trúng mặt V”. Tại Cơ quan điều tra, có lúc ông V khai “bị cáo C cầm ly bia quơ ngang trúng mặt tôi bên trái” (BL 63). Có lúc ông V khai “Cải cầm ly bia thủy tinh trên bàn đập thẳng vào mặt tôi” (BL 65). Có lúc ông V khai “Cải dùng tay phải cầm ly bia để trên bàn đập vòng qua người M, trúng mặt mặt tôi” (BL 66) [5] Đối với lời khai người làm chứng Từ Công Minh: Tại phiên tòa phúc thẩm, lúc đầu ông M khai thấy “Cải quơ ly bia về phía V”, sau đó khẳng định thấy “Cải ném ly bia về phía V”. Tại phiên tòa sơ thẩm, có lúc ông M khai thấy “Cải đập ly bia”, lúc thì “nhớ C cầm ly bia quơ chứ không ném” (BL 603). Tại Cơ quan điều tra, ông M có lúc khai thấy “Cải ném ly về phía V” (BL 279, 282, 284, 285, 289), có lúc khai “Cải ném ly vòng qua đầu tôi về phía V” (BL 280, 288, 290).
[6] Đối với lời khai người làm chứng Lê Nguyễn Trường G: Tại phiên tòa phúc thẩm khai “Thấy C dùng tay phải đập từ trên xuống (tay có cầm vật gì không rõ) về phía V, có trúng V hay không G không rõ”. Tại Cơ quan điều tra, có lúc ông G khai “thấy ông C đánh ông V bằng một vật không nhớ rõ là ly hay chai rượu và thấy ông V ngã xuống” (BL 295, 298). Có lúc khai “C dùng tay cầm vật gì đó đập hay ném vô mặt ông V” (BL 296, 299, 300, 306). Có lúc khai “C dùng tay phải cầm vật gì đó đập thẳng vào mặt anh V (hướng đập ngang) sau đó anh V ngã xuống đất” (BL 303).
[7] Đối với người làm chứng Đồng Xuân Đ, Tô Tiến D, Nguyễn Minh H1 đều khai không nhìn thấy sự việc, không biết nguyên nhân bị hại V té ngã.
[8] Như vậy, lời khai của bị cáo, bị hại và các nhân chứng được nêu tại các tiểu mục từ [3] đến [7] còn có sự mâu thuẫn về cách thức bị cáo tác động gây thương tích cho bị hại. Bên cạnh đó, lời khai của bị cáo, bị hại và các nhân chứng về vị trí của Cải, V, M, Đ tại thời điểm bị hại bị tác động, té ngã cũng còn có điểm mâu thuẫn với cách thức bị cáo tác động gây thương tích cho bị hại nên cần tiếp tục điều tra, đối chất để làm rõ.
[9] Tại phiên tòa phúc thẩm, bà Từ Tuyền V2 khai các nội dung:
[9.1] Bà V2 chi trả tiền vé máy bay cho điều tra viên (BL 534) và đưa tiền để điều tra viên bồi dưỡng giám định vật gây thương tích (BL 575). Nội dung này cần điều tra làm rõ.
[9.2] Bà V2 khai bị cáo C có đưa bà 480.000.000 đồng kèm theo Đơn yêu cầu không khởi tố vụ án hình sự được đánh máy sẵn có nội dung “... trong quá trình xảy ra xô xát với nhau, tôi có té ngã chấn thương ở vùng đầu ... do tôi tự té ngã không liên quan đến việc xô xát của các anh M, C, G Tại phiên tòa, bị cáo C thừa nhận có đưa 480.000.000 đồng và Đơn yêu cầu không khởi tố vụ án hình sự cho bà V2, đơn là do bị cáo tự đánh máy nhưng cho rằng đó là sự chỉ đạo của lãnh đạo đơn vị. Cần điều tra làm rõ có sự chỉ đạo bị cáo C đưa số tiền này cho bà V2 không.
[9.3] Bà V2 khai có nhận của ông M 8.000.000 đồng, ông H1 20.000.000 đồng, ông T8 100.000.000 đồng, và có nhận 25.000.000 đồng của ai không nhớ, tổng cộng là 153.000.000 đồng. Tất cả những lần nhận tiền đều có nhiều người thuộc phòng PC03 chứng kiến và nói là tiền của anh em trong đơn vị hỗ trợ chứ không phải của bị cáo C. Bị cáo khai đưa ông M 8.000.000 đồng, ông H1 45.000.000 đồng, ông T8 100.000.000 đồng, tổng cộng 153.000.000 đồng để ứng hỗ trợ cho bị hại theo yêu cầu của lãnh đạo phòng. Cần điều tra làm rõ số tiền này là của ai, có sự chỉ đạo bị cáo Cải ứng số tiền này để đưa cho bà V2 không.
[10] Cần tiếp tục điều tra làm rõ nội dung 09 tấm ảnh do người làm chứng Lê D1 giao nộp theo Biên bản giao nhận tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử ngày 15- 10-2021 (BL 186).
[11] Các vấn đề nêu trên cấp phúc thẩm không thể bổ sung, khắc phục được nên cần phải hủy toàn bộ Bản án hình sự sơ thẩm số 262/2023/HS-ST ngày 18-9- 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa để điều tra lại theo thủ tục chung.
[14] Vì bản án hình sự sơ thẩm bị hủy để điều tra lại nên bị cáo kháng cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 355; điểm b khoản 1 Điều 358 của Bộ luật tố tụng hình sự,
1. Hủy Bản án hình sự sơ thẩm số 262/2023/HS-ST ngày 18-9-2023 của Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa.
2. Chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa để điều tra lại theo thủ tục chung.
3. Về án phí: Căn cứ điểm f khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, bị cáo Hồ Xuân C không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Bản án về tội cố ý gây thương tích số 12/2024/HS-PT
Số hiệu: | 12/2024/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Khánh Hoà |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 01/02/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về