TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
BẢN ÁN 115/2021/HS-PT NGÀY 23/04/2021 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 23 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 97/2021/TLPT-HS ngày 19/3/2021 đối với bị cáo Nguyễn Thanh L và Ngô Bảo H, do có kháng cáo của bị cáo và bị hại đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 70/2021/HS-ST ngày 08/02/2021 của Toà án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
Bị cáo có kháng cáo:
1/ Họ và tên: Nguyễn Thanh L (Tên gọi khác: TL); Sinh ngày 10 tháng 9 năm 1994; tại: tỉnh Đắk Lắk; nơi cư trú: Tổ dân phố W, phường R, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Phật giáo; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn D và bà Nguyễn Thị Tuyết N; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án: Không; Tiền sự: 01 tiền sự. Ngày 10 tháng 01 năm 2019, bị Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk ra Quyết định số 05/2019/QĐ-TA áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa đi cai nghiện bắt buộc, thời hạn 20 tháng, ngày 21 tháng 02 năm 2020 chấp hành xong.
Nhân thân: Ngày 26 tháng 5 năm 2016, bị Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk ra Quyết định số 130/QĐ-TA áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa đi cai nghiện bắt buộc, thời hạn 18 tháng, ngày 17 tháng 8 năm 2017 chấp hành xong. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú cho đến nay – Có mặt tại phiên tòa.
2/ Họ và tên: Ngô Bảo H (Tên gọi khác: G); Sinh ngày 14 tháng 10 năm 1996; tại: tỉnh Đắk Lắk; nơi cư trú: Tổ dân phố O, phường R, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; Trình độ học vấn: 11/12; Nghề nghiệp: Không; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Phật giáo; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Ngô Văn H1 (Đã chết) và bà Lê Thị Kim L1; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án: 01,tại Bản án số 222/2018/HSST Ngày 05 tháng 9 năm 2018, bị Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk, xử phạt 02 năm 06 tháng tù nH cho hưởng án treo, thời gian thử thách 05 năm, về tội Cố ý gây thương tích; Tiền sự: 01,ngày 28 tháng 01 năm 2019, bị Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk ra Quyết định số 27/2019/QĐ-TA áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa đi cai nghiện bắt buộc, thời hạn 22 tháng, ngày 24 tháng 4 năm 2020 chấp hành xong. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 21/9/2020 cho đến nay – Có mặt tại phiên tòa.
Ngoài ra, trong vụ án còn có bị cáo Lại Minh T, nhưng không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị.
- Bị hại: Anh Nguyễn Tấn T1, sinh năm 1991 Địa chỉ: Thôn P, xã E, Tp. B, tỉnh Đắk Lắk. (Vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 18 giờ 00 phút ngày 25 tháng 4 năm 2020, Lại Minh T cùng các anh Nguyễn Tấn T1, Nguyễn Tấn T2, Nguyễn Thanh T3, cùng trú tại thôn P, xã E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk đến nhà anh T3 ăn nhậu. Tại đây, giữa anh T2 và T xảy ra mâu thuẫn cãi nhau về cách xưng hô “mày, tao” với nhau, thấy vậy anh T3 can ngăn và hất đổ bia không cho nhậu nữa. Lúc này, các anh T2 và T1 dùng tay đánh anh T3 nhưng không gây thương tích, T thấy vậy vào can ngăn, thì bị anh T1 rượt đuổi đánh lại T làm T ngã xuống nền đất, rồi T đứng dậy bỏ đi về nhà. Khoảng 19 giờ 30 phút cùng ngày, T gặp Nguyễn Thanh L và Ngô Bảo H trước nhà T, T kể cho L và H về việc bị anh T1 đánh và rủ L, H cùng T qua nhà anh T1 để đánh anh T1, thì L và H đồng ý. Sau đó, T vào nhà lấy 02 con dao rựa, dài khoảng 50cm, cán bằng gỗ tre, lưỡi bằng sắt và 01 cây sắt dài khoảng 150cm, rồi L điều khiển xe máy nhãn hiệu Yamaha, loại Sirius, màu đen (chưa xác định rõ biển số) chở T và H ngồi sau, T cầm 02 dao rựa và 01 cây sắt đi đến nhà anh T1 tại thôn P, xã E, thành phố B. Khi đến nơi, T đưa cho L 01 con dao rựa, đưa cho H 01 cây sắt và T cầm 01 con dao rựa có đặc điểm trên rồi cả ba cùng đi đến cổng nhà anh T1. Thấy anh T1 đang đứng trong nhà, T dùng con dao rựa chặt vào cửa cổng, do cổng không khóa, nên T dùng tay mở cửa cổng rồi cùng L và H đi vào nhà anh T1. T, L, H đuổi theo rồi T dùng lưỡi dao rựa chém nhiều nhát vào tay và lưng anh T1, anh T1 dùng tay giằng lại con dao rựa, thấy vậy L cầm con dao rựa chém một phát trúng vào người anh T1, còn H dùng cây sắt đánh vào người anh T1 gây thương tích. Lúc này, chị Mai Thị Thảo M là vợ anh T1 đang ngồi trên võng kêu cứu, thì T, L, H bỏ ra về, anh T1 được gia đình đưa đi Bệnh viện đa khoa A chữa trị vết thương. Còn L chở T và H về nhà T cất giấu 02 con dao rựa và cây sắt, rồi H và L đi về phòng trọ của L tại số đường K, phường C, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk ngủ.
Tại bản Kết luận giám định pháp y về thương tích số 485, ngày 30 tháng 4 năm 2020 của Trung tâm Pháp y tỉnh Đắk Lắk, kết luận: Anh Nguyễn Tấn T1 bị vết thương vùng cột sống thắt lưng ngang mức L3 kích thước (5x0,2)cm; Gãy mỏm gai đốt sống L3; Vết thương mặt sau 1/3 dưới cẳng tay phải kích thước (3x0,2)cm; Vết thương gan bàn tay phải, kẻ ngón I-II kích thước (2,5x0,2)cm; Vết thương hình cung, mở xuống dưới cạnh trong xương bàn V bàn tay trái, kích thước (2,5x0,2)cm. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên là 12%. Vật tác động: Vật sắc.
Tại bản Kết luận giám định pháp y về thương tích số 1003, ngày 18 tháng 9 năm 2020 của Trung tâm Pháp y tỉnh Đắk Lắk, kết luận: Lại Minh T bị sưng nề vùng chẩm; bầm tím vùng tai phải, tại thời điểm giám định đã lành, không để lại thẹo, không làm biến đổi sắc thái da. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên là 0%. Vật tác động: Vật tày, cứng.
Bản án hình sự sơ thẩm số 70/2021/HSST ngày 08/02/2021của Toà án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thanh L và Ngô Bảo H phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
Căn cứ vào điểm a, i khoản 1, điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh L (TL) 02 (hai) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.
Căn cứ vào điểm a, i khoản 1, điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Ngô Bảo H (G) 02 (hai) năm 03 (ba) tháng tù.
Áp dụng Điều 56; khoản 5 Điều 65 tổng hợp hình phạt 02 năm 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 05 năm, về tội “Cố ý gây thương tích” của bản án số 222/2018/HSST ngày 05 tháng 9 năm 2018 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của 02 bản án là 04 (bốn) năm 09 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam, ngày 21/9/2020.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về hình phạt đối với bị cáo Lại Minh T, xử lý vật chứng, trách nhiệm dân sự, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 22/2/2021, bị cáo Nguyễn Thanh L kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo, bị hại anh Nguyễn Tấn T1 kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Ngô Bảo H và cho bị cáo Nguyễn Thanh L hưởng án treo.
Tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Thanh L vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo, các bị cáo Nguyễn Thanh L và Ngô Bảo H đã khai nhận toàn bộ hành vi mà các bị cáo đã thực hiện đúng như nội dung Bản án sơ thẩm đã nêu.
Quá trình tranh luận tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát đã phân tích, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội đối với hành vi phạm tội của các bị cáo và cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm đã truy tố, xét xử các bị cáo Nguyễn Thanh L và Ngô Bảo H về tội “Cố ý gây thương tích” theo khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự là đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Xét mức hình phạt 02 năm 03 tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt các bị cáo là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 không chấp nhận kháng cáo của bị cáo và bị hại, giữ nguyên bản án sơ thẩm. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị:
Căn cứ vào điểm a, i khoản 1, điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh L (Tý L) 02 (hai) năm 03 (ba) tháng tù về tội “ Cố ý gây thương tích”.
Căn cứ vào điểm a, i khoản 1, điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Ngô Bảo H (Gơ) 02 (hai) năm 03 (ba) tháng tù về tội “ Cố ý gây thương tích”.
Áp dụng Điều 56; khoản 5 Điều 65 tổng hợp hình phạt 02 năm 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 05 năm, về tội “Cố ý gây thương tích” của bản án số 222/2018/HSST ngày 05 tháng 9 năm 2018 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của 02 bản án là 04 (bốn) năm 09 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam, ngày 21/9/2020.
Các bị cáo không tranh luận, bào chữa gì chỉ đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Tại phiên tòa hôm nay người kháng cáo – bị hại anh Nguyễn Tấn T1 vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hay do trở ngại khách quan; xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát và căn cứ điểm b khoản 1 Điều 351 Bộ luật tố tụng hình sự, HĐXX vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bị hại anh Nguyễn Tấn T1.
[2] Tại phiên toà phúc thẩm, các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ cơ sở pháp lý để kết luận: Vào khoảng 19 giờ 30 phút ngày 25/4/2020, tại nhà anh Nguyễn Tấn T1 ở thôn P, xã E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, Nguyễn Thanh L và Ngô Bảo H đã có hành vi dùng dao rựa và dùng cây sắt là hung khí nguy hiểm đánh, chém vào người anh T1 gây thương tích 12%, với tình tiết “Có tính chất côn đồ”. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt các bị cáo Nguyễn Thanh L và Ngô Bảo H về tội “Cố ý gây thương tích” theo khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Xét kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thanh L và bị hại Nguyễn Tấn T1, Hội đồng xét xử thấy mức hình phạt 02 năm 03 tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt các bị cáo là thỏa đáng, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà các bị cáo gây ra. Các bị cáo L và H đều có nhân thân xấu, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét áp dụng đầy đủ tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo như: Thành khẩn khai báo, bồi thường thiệt hại và được người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo. Riêng bị cáo Ngô Bảo H phạm tội mới trong thời gian thử thách, do đó còn phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “ Tái phạm” và áp dụng Điều 56, khoản 5 Điều 65 để chuyển hình phạt 02 năm 06 tháng tù treo thành tù giam để tổng hợp với hình phạt mới buộc bị cáo phải chấp hành là đúng đắn. Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào mới nên không có căn cứ xem xét kháng cáo của bị cáo và bị hại. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thanh L và bị hại Nguyễn Tấn T1.
[4] Về án phí: Do không được chấp nhận kháng cáo nên bị cáo Nguyễn Thanh L phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Bị hại anh Nguyễn Tấn T1 không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
[1] Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:
Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thanh L và bị hại Nguyễn Tấn T1 – Giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 70/2021/HSST ngày 08/02/2021 của Toà án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk về phần hình phạt đối với các bị cáo Nguyễn Thanh L và Ngô Bảo H.
[2] Điều luật áp dụng và hình phạt:
[2.1]. Căn cứ vào điểm a, i khoản 1, điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh L (Tý L) 02 (hai) năm 03 (ba) tháng tù, về tội “Cố ý gây thương tích”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.
[2.2]. Căn cứ vào điểm a, i khoản 1, điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Ngô Bảo H (Gơ) 02 (hai) năm 03 (ba) tháng tù về tội “ Cố ý gây thương tích” Áp dụng Điều 56; khoản 5 Điều 65 tổng hợp hình phạt 02 năm 06 tháng tù nH cho hưởng án treo, thời gian thử thách 05 năm, về tội “Cố ý gây thương tích” của bản án số 222/2018/HSST ngày 05 tháng 9 năm 2018 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của 02 bản án là 04 (bốn) năm 09 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam, ngày 21/9/2020.
[3] Án phí: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Bị cáo Nguyễn Thanh L phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm. Bị hại anh Nguyễn Tấn T1 không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội cố ý gây thương tích số 115/2021/HS-PT
Số hiệu: | 115/2021/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đăk Lăk |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 23/04/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về