Bản án về tội cố ý gây thương tích số 112/2023/HS-PT 

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 112/2023/HS-PT NGÀY 13/03/2023 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 13 tháng 3 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 1033/2022/TLPT-HS ngày 28/10/2022 đối với bị cáo Hoàng Văn A và các đồng phạm do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 446/2022/HS-ST ngày 21 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Yên Bái.

1. Hoàng Văn A, sinh ngày 05 tháng 4 năm 1982 tại tỉnh Yên Bái; Nơi cư trú: Tổ 2, thị trấn C1, huyện C, tỉnh Yên Bái; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Văn D và bà Hoàng Thị D1; có vợ là Lê Thị E và 02 con (con lớn sinh năm 2007, con nhỏ sinh năm 2014); tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú (có mặt tại phiên tòa).

2. Trần Như A1, sinh ngày 27 tháng 01 năm 1988 tại tỉnh Yên Bái; Nơi cư trú: Thôn C4, xã C3, thành phố C2, tỉnh Yên Bái; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông E1 và bà Nguyễn Thị E2; có vợ là Bùi Thị E3 và 02 con (con lớn sinh năm 2014, con nhỏ sinh năm 2018); tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 05/4/2017 bị Công an thành phố C2, tỉnh Yên Bái xử phạt 2.500.000 đồng về hành vi gây rối trật tự công cộng (Quyết định số 112/QĐ-XPVPHC), thi hành ngày 04/5/2017 và ngày 13/10/2017 bị Công an huyện C9, tỉnh Yên Bái xử phạt 750.000 đồng về hành vi đánh nhau (Quyết định số 124/QĐ-XPVPHC), thi hành ngày 16/10/2017; bị cáo bị áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú (có mặt tại phiên tòa).

3. Hoàng Văn A2, sinh ngày 27 tháng 9 năm 1988 tại tỉnh Bắc Cạn; Nơi cư trú: Tổ 2, thị trấn C6, huyện C5, tỉnh Bắc Cạn; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 6/12; dân tộc: Hoa; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Văn E4 (đã chết) và bà Vũ Thị E5; có vợ là Nông Thị E5 (đã ly hôn) và 01 con sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú (có mặt tại phiên tòa).

4. Chung Minh A3, sinh ngày 25 tháng 6 năm 1999 tại tỉnh Bắc Cạn; Nơi cư trú: Thôn C8, xã C7, huyện C5, tỉnh Bắc Cạn; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Chu Văn E7 và bà Tống Thị E8; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú (có mặt tại phiên tòa).

5. Nguyễn Văn A4, sinh ngày 14 tháng 01 năm 2000 tại tỉnh Yên Bái; Nơi cư trú: Thôn C11, xã C10, huyện C9, tỉnh Yên Bái; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn E9 và bà Nguyễn Thị E10; có vợ là Hoàng Thị Kim E11; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú (có mặt tại phiên tòa).

6. Hoàng Tiến A5, sinh ngày 11 tháng 10 năm 1999 tại huyện C9, tỉnh Yên Bái; Nơi cư trú: Thôn C13, xã C12, huyện C9, tỉnh Yên Bái; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Văn E12 và bà Nguyễn Thị E13; vợ, con: Chưa có; tiền sự: Không; tiền án: Ngày 26/11/2019 bị Tòa án nhân dân tỉnh Yên Bái xử phạt 03 năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 05 năm về tội “Cố ý gây thương tích”; nhân thân: Ngày 25/01/2019 bị Công an thành phố C2, tỉnh Yên Bái xử phạt 2.000.000 đồng về hành vi Xâm hại sức khỏe người khác (Quyết định số 44/QĐ-XPVPHC) và ngày 15/7/2019 bị Công an thành phố C2, tỉnh Yên Bái xử phạt 2.000.000 đồng về hành vi Sử dụng vũ khí trái phép (Quyết định số 146/QĐ-XPVPHC); bị cáo bị áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú (có mặt tại phiên tòa).

7. Vũ Hoàng Khánh A6, sinh ngày 30 tháng 7 năm 1996 tại tỉnh Yên Bái; Nơi cư trú: Tổ 3, phường C14, thành phố C2, tỉnh Yên Bái; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Đình E14 và bà Hoàng Minh E15; có vợ là Đặng Thị E16 và 01 con sinh năm 2019; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú (có mặt tại phiên tòa).

Các bị cáo không kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị, người bị hại không kháng cáo nên Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do có mâu thuẫn với anh Lương Xuân B đang làm công nhân của Hợp tác xã L (thuộc thôn C16, xã C15, huyện C, tỉnh Yên Bái). Tối ngày 28/11/2021, Hoàng Văn A gọi điện cho Trần Như A1, nhờ A1 lên C đánh anh B.

Sáng ngày 29/11/2021, Trần Như A1 gọi điện cho Hoàng Tiến A5 bảo đi lên C có việc, lúc này A5 đang ngồi uống nước cùng với Nguyễn Văn A4. A1 bảo A5 vào km5 đón Vũ Hoàng Khánh A6. A1 gọi điện tiếp cho Hoàng Văn A2 (đang làm thuê tại xã C3, thành phố C2, tỉnh Yên Bái) bảo A2 gọi thêm người và “lấy đồ mang đi phòng thân”; A2 gọi Nguyễn Tuấn A7, Chung Minh A3, Khuông Văn A8 (đang lao động tự do ở thành phố C2, tỉnh Yên Bái) cùng đi. A2 bảo Nguyễn Tuấn A7 và Chung Minh A3 về phòng trọ của A2 lấy 02 con dao quắm để vào cốp xe ôtô BKS 20A-076.10 do A1 thuê và tự lái. A1 điều khiển xe ôtô chở A2, A7, A3, A8 đi lên C trước. A5 thuê xe ôtô BKS 21A- 039.24 chở A6 và A4 đi sau. Khi dừng nghỉ uống nước tại quán ven đường thuộc xã C17, huyện C, tỉnh Yên Bái, A1 nói với tất cả là “lên C đánh dằn mặt một người mà hôm nọ đánh anh của anh, chỉ được đánh dằn mặt không được dùng dao”. Khi đến thị trấn C1, huyện C, tỉnh Yên Bái, A1 gọi điện cho Hoàng Văn A, A điều khiển xe ôtô BKS 21C-063.08 chở Nguyễn Văn A9 đến quán nước gần bờ hồ ở thị trấn C1 gặp nhóm người của A1. A nói với A1 “anh em ra đánh dằn mặt nó giúp anh” “nó làm ở mỏ đá, tên B”, A điều khiển xe ôtô đi trước dẫn đường, A1 và A5 điều khiển xe ôtô đi sau. Trên xe, A1 nói với A2, A7, A3, A8 “vào đấy tìm thằng nào tên B, chỉ đấm đá dằn mặt thôi, không được dùng dao”, sau đó A2, A7, A3, A8 sang ngồi xe của A5. A2 nói với các đối tượng trên xe “vào trong lán sẽ tìm một người tên là B để đánh nhưng không được đâm chém chỉ dùng chân tay đấm, đá dằn mặt sau đó tất cả về thành phố C2”.

Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 29/11/2021, A dẫn đường đưa nhóm của Trần Như A1 đến và chỉ lán anh B ở, rồi điều khiển xe ô tô đi về. Tất cả các đối tượng xuống xe đi vào lán, A1 cầm theo 01 đoạn gậy bằng gỗ dài khoảng 30cm, quấn trong chiếc áo màu trắng. A2 và A8 mỗi người cầm theo 01 con dao quắm. A7 nhặt cầm theo 01 cục gạch bê tông. Trong lán lúc đó có các anh Lương Xuân B, Nguyễn Chí B1, Lương Xuân B2, Đinh Văn B3 và Đinh Văn B4 đều là công nhân của Hợp tác xã L đang ngủ. Phát hiện thấy nhóm của A1 đi vào, anh B bỏ trốn ra ngoài. Do không biết mặt anh B nên khi vào lán, A1 hô “Thằng B là thằng nào, thằng B đâu”, đồng thời cầm đoạn gậy gỗ đập về phía chân anh B1, anh B1 co chân lên nên không trúng. A7 nhảy lên phản, cầm cục gạch bê tông giơ lên đập thẳng vào vùng đầu anh B1, phát thứ nhất anh B1 giơ tay đỡ được, phát thứ hai trúng vào đỉnh đầu, phát thứ ba thì Hoàng Văn A2 và Chung Minh A3 cùng lao vào đánh anh B1 nên va phải A7 làm cục gạch bị rơi. Hoàng Văn A2 dùng chân phải đạp 03 cái vào đầu và mặt anh B1. Chung Minh A3 dùng ống điếu hút thuốc lào bằng nứa vụt 02 phát vào chân anh B1. Nguyễn Văn A4 cầm chiếc ghế nhựa trong lán đập vào đầu anh B1. Hoàng Tiến A5 cầm 01 chiếc chén uống nước bằng sứ ném vào vách lán. Vũ Hoàng Khánh A6 nhặt và cầm ở tay một viên đá nhỏ, thấy trong lán có người chạy ra phía sau, A6 đuổi theo nhưng không kịp, khi quay vào lán A6 cầm một chiếc ghế nhựa nhưng chưa đánh ai. Ngay sau đó được những người trong lán nói không có anh B, biết là đánh nhầm người nên cả bọn dừng lại và đi về. Trên đường về A1 vứt đoạn gậy xuống sông chảy, A2 vứt 02 con dao ở ven đường.

Quá trình khám nghiệm hiện trường Cơ quan điều tra đã thu giữ được 01 cục gạch bê tông dài 17cm chỗ rộng nhất là 13cm, dày nhất 05 cm, trọng lượng 1,7kg, trên cục gạch dính chất màu nâu; 01 ống điếu bằng nứa dài 69,3cm, đường kính 05cm đã vỡ; 01 chén sứ màu trắng; 01 ghế nhựa màu đỏ đã cũ vỡ thành 5 mảnh. Các vật chứng khác quá trình điều tra không thu hồi được.

Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 162/TgT ngày 02/12/2021 của C17 pháp y tỉnh Yên Bái kết luận:

Kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là: 20% (hai mươi phần trăm).

Bản án hình sự sơ thẩm số 446/2022/HS-ST ngày 21 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Yên Bái Tuyên bố: Các bị cáo Hoàng Văn A, Trần Như A1, Hoàng Văn A2, Chung Minh A3, Nguyễn Văn A4, Hoàng Tiến A5, Vũ Hoàng Khánh A6 phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Hoàng Văn A 04 (bốn) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày đi thi hành án.

Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51;

Điều 17; Điều 58 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Trần Như A1 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày đi thi hành án.

Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Hoàng Văn A2 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày đi thi hành án.

Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Chung Minh A3 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày đi thi hành án.

Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s, u khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; khoản 1 Điều 54; Điều 58 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn A4 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày đi thi hành án.

Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51;

điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 58; Điều 56; khoản 5 Điều 65 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Hoàng Tiến A5 03 (ba) năm tù. Tổng hợp với hình phạt 03 năm tù (tại bản án số 53/2019/HS-PT ngày 26/11/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Yên Bái), buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của cả 02 bản án là 06 (sáu) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày đi thi hành án.

Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Vũ Hoàng Khánh A6 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày đi thi hành án.

Ngoài ra,Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về, xử lý vật chứng, trách nhiệm bồi thường, án phí và thông báo quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 28/9/2022 bị cáo Vũ Hoàng Khánh A6, Hoàng Văn A, Hoàng Văn A2, Chung Minh A3 có đơn kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 03/10/2022 bị cáo Trần Như A1 có đơn kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 04/10/2022 bị cáo Hoàng Tiến A5 có đơn kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 03/10/2022 bị cáo Nguyễn Văn A4 có đơn kháng cáo xin được hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Các bị cáo Trần Như A1, bị cáo Hoàng Tiến A5, Vũ Hoàng Khánh A6 xin rút đơn kháng cáo.

Các bị cáo còn lại khai nhận toàn bộ hành vi của mình như nội dung bản án của tòa án nhân dân tỉnh Yên Bái, các bị cáo rất ăn năn về hành vi phạm tội của mình, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức hình phạt để các bị cáo cố gắng cải tạo, hy vọng có ngày được trở về với gia đình và xã hội.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội tham dự phiên tòa có quan điểm: Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và lời khai tại phiên tòa có đủ căn xác định bị cáo đã có hành vi cố ý gây thương tích như tòa án cấp sơ thẩm đã quy kết là đúng người đúng tội, không nặng như các bị cáo nêu ra. Đề nghị Hôi đồng xét xử bác kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên toàn bộ quyết định của bản án sơ thẩm.

Đình chỉ xét phúc thẩm đối với các bị cáo Trần Như A1, bị cáo Hoàng Tiến A5, bị cáo Vũ Hoàng Khánh A6 do các bị cáo xin rút đơn kháng cáo.

Các bị cáo không tranh luận gì, lời nói sau cùng các bị cáo đề nghị Hội đồng xét giảm nhẹ hình phạt, bị cáo A4 xin hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về quyết định tố tụng, hành vi tố tụng: Quyết định tố tụng, hành vi tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Yên Bái, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Yên Bái, Kiểm sát viên, thẩm phán, thư ký trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Về nội dung vụ án: Do có mâu thuẫn cá nhân với anh Lương Xuân B nên Hoàng Văn A có nhờ Trần Như A1 đánh anh B. A nói với nhóm của A1 “Anh em ra đánh dằn mặt nó giúp anh”; A1 nói với A2, A7, A3, A8 “Vào đấy tìm thằng nào tên B, chỉ đấm đá dằn mặt thôi, không được dùng dao”, sau đó A2 nói với các đối tượng “Vào trong lán sẽ tìm một người tên là B để đánh nhưng không được đâm chém chỉ dùng chân tay đấm, đá dằn mặt sau đó tất cả về thành phố C2”. Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 29/11/2021 Hoàng Văn A dẫn đường đưa nhóm của A1 đến lán ở của anh B (lán công nhân của Hợp tác xã L, thuộc thôn C16, xã C15, huyện C), rồi A đi về trước. Do không biết mặt anh B nên khi vào lán, A1 hô “Thằng B là thằng nào, thằng B đâu”, đồng thời cầm đoạn gậy gỗ dài khoảng 30cm, quấn trong chiếc áo màu trắng đập về phía chân anh Nguyễn Chí B1, anh B1 co chân lên nên không trúng. A2 và A8 mỗi người cầm theo 01 con dao quắm. Nguyễn Tuấn A7 cầm cục gạch bê tông dài 17cm, rộng 13 cm, dày 05 cm trọng lượng 1,7 kg nhảy lên phản, đập thẳng vào vùng đầu anh B1 ba phát, trong đó có một phát trúng vào đỉnh đầu làm rách da vỡ lún xương sọ vùng đỉnh trái của anh B1. Hoàng Văn A2 dùng chân phải đạp 03 cái vào đầu và mặt anh B1. Chung Minh A3 dùng ống điếu hút thuốc lào bằng nứa vụt 02 phát vào chân anh B1. Nguyễn Văn A4 cầm chiếc ghế nhựa trong lán đập vào đầu anh B1. Hoàng Tiến A5 cầm 01 chiếc chén uống nước bằng sứ ném vào vách lán. Vũ Hoàng Khánh A6 nhặt cầm ở tay một viên đá nhỏ, thấy trong lán có người chạy ra phía sau, A6 đuổi theo nhưng không kịp, khi quay vào lán A6 cầm một chiếc ghế nhựa nhưng chưa đánh ai. Hậu quả làm anh B1 bị thương với tỷ lệ tổn thương cơ thể hiện tại là 20%.

Hành vi nêu trên của các bị cáo đã phạm tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự, như tòa án cấp sơ thẩm đã quy kết và quyết định là đúng.

[4] Xét kháng cáo của các bị cáo Hội đồng xét xử thấy như sau: Trước hết đây là vụ án đồng phạm giản đơn, các bị cáo không có sự bàn bạc, phân công, câu kết chặt chẽ với nhau. Hoàng Văn A là người chủ mưu; Trần Như A1 là người cầm đầu, rủ các bị cáo khác; Hoàng Văn A2, Chung Minh A3, Nguyễn Văn A4 là người thực hiện; Khuông Văn A8, Hoàng Tiến A5, Vũ Hoàng Khánh A6 là người giúp sức.

Đối với từng bị cáo cụ thể:

- Đối với bị cáo Hoàng Văn A: Do có mâu thuẫn cá nhân với anh Lương Xuân B nên A có nhờ A1 đánh dằn mặt anh B. Sau khi A1 rủ thêm các đồng phạm khác thì A dẫn đường đưa nhóm của A1 đến lán của anh B rồi A đi về trước. Do A chỉ nhờ nhóm của A1 đánh dằn mặt anh B.Việc cả nhóm đánh nhầm anh B1, A không biết nhưng A vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “Cố ý gây thương tích” như tòa án cấp sơ thẩm đã quy kết và quyết định là đúng.

Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo đã xuất trình Huân chương kháng chiến hạng 3 của ông Hoàng Văn D, Huy chương kháng chiến hạng nhì của bà Hoàng Thị D1 là ông bà của bị cáo, đơn xin miễn trách nhiệm hình sự của người bị hại là anh Nguyễn Chí B1, đơn của chị Nguyễn Thị D2 là mẹ của cháu Lý Quang D3 bị ngã xuống hồ nước đã được bị cáo cứu vớt (đơn có xác nhận của UBND xã C18, huyện C, tỉnh Yên Bái) và đơn của anh Hoàng Văn D4 ở Xã C15 trình bày bị cáo A đã cứu giúp anh khi bị tai nạn xe máy (đơn có xác nhận của UBND xã C15, huyện C, tỉnh Yên Bái) để xử phạt bị cáo Hoàng Văn A 04 (bốn) năm tù. Mặc dù bị cáo có xuất trình thêm các tình tiết mới nhưng xét về vai trò trong vụ án thì thấy bị cáo có vai chủ mưu là người trực tiếp gọi điện nhờ Trần Như A1 đánh anh B do đó mức hình phạt 4 năm tù là đúng với tính chất hành vi, vai trò phạm tội của bị cáo, không nặng như bị cáo nêu ra.

Đối với Hoàng Văn A2 có hành vi dùng chân phải đạp 03 cái vào đầu và mặt anh B1. Do bị cáo là lao động chính, hiện đang trực tiếp phụng dưỡng bà nội sinh năm 1940, hoàn cảnh gia đình khó khăn, thuộc hộ nghèo; đã thực sự ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đã lập công chuộc tội. Do vậy, tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng Điều 54 của Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo 03 (ba) năm tù là đúng.

Đối với Chung Minh A3 có hành vi dùng ống điếu hút thuốc lào bằng nứa vụt 02 phát vào chân anh B1. Bị cáo là người đồng bào dân tộc thiểu số ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn nên được tòa án cấp sơ thẩm áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo 03 năm tù là đúng.

Đối với Nguyễn Văn A4 có hành vi cầm chiếc ghế nhựa trong lán đập vào đầu anh B1. Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm u khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự do đã phụng dưỡng và thờ cúng ông Nguyễn Xuân D5 (ông nội của bị cáo)là người có công với cách mạng, thuộc hộ nghèo; đã lập công chuộc tội (cụ thể, báo tin tội phạm mua bán trái phép chất ma túy, từ đó Cơ quan công an đã bắt được các đối tượng vi phạm để xử lý theo quy định của pháp luật) để xử phạt bị cáo 01 năm tù là đã xem xét hết các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo.

Do các bị cáo Trần Như A1, Hoàng Tiến A5, Vũ Hoàng Khánh A6 xin rút kháng cáo tại phiên tòa. Xét thấy việc rút kháng cáo của các bị cáo là tự nguyện, không trái quy định của pháp luật do đó Hội đồng xét xử căn cứ vào các quy định của pháp luật đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với các bị cáo trên.

Như đã phân tích ở trên thì thấy trước khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm đã xem xét hành vi, vai trò phạm tội cũng như nhân thân để ấn định mức hình phạt đối với cụ thể từng bị cáo là có căn cứ đúng quy định của pháp luật do đó Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo.

Do kháng cáo của các bị cáo Hoàng Văn A, Hoàng Văn A2, Chung Minh A3, Nguyễn Văn A4 không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên, Căn cứ vào Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự,

QUYẾT ĐỊNH

1. Áp dụng Khoản 1 Điều 348 Bộ luật Tố tụng hình sự: Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của các bị cáo Trần Như A1, Hoàng Tiến A5, Vũ Hoàng Khánh A6. Các quyết định của Bản án hình sự sơ thẩm số 446/2022/HS- ST ngày 21 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Yên Bái đối với bị cáo Trần Như A1, Hoàng Tiến A5, Vũ Hoàng Khánh A6 có hiệu lực pháp luật.

2. Không chấp nhận nội dung đơn kháng cáo của các bị cáo Hoàng Văn A, Hoàng Văn A2, Chung Minh A3, Nguyễn Văn A4. Giữ nguyên các quyết định của Bản án hình sự sơ thẩm số 446/2022/HS-ST ngày 21 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Yên Bái.

3. Tuyên bố: Các bị cáo Hoàng Văn A, Hoàng Văn A2, Chung Minh A3, Nguyễn Văn A4 phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

4. Về hình phạt:

4.1. Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Hoàng Văn A 04 (bốn) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày đi thi hành án.

4.2. Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Hoàng Văn A2 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày đi thi hành án.

4.3. Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Chung Minh A3 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày đi thi hành án.

4.4. Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s, u khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; khoản 1 Điều 54; Điều 58 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn A4 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày đi thi hành án.

5. Về án phí: Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án. Các bị Hoàng Văn A, Hoàng Văn A2, Chung Minh A3, Nguyễn Văn A4, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

143
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 112/2023/HS-PT 

Số hiệu:112/2023/HS-PT 
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/03/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về