TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN L- TỈNH Y
BẢN ÁN 11/2021/HS-ST NGÀY 16/06/2021 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 16-6-2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện L- tỉnh Y, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 09/2021/TLST-HS ngày 02-4-2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 10/2021/QĐXXST-HS ngày 07-5-2021 đối với bị cáo:
Lương Tiến Th;Tên gọi khác: Không Sinh ngày 12-02-1994 tại huyện L- tỉnh Y.
Nơi cư trú: Thôn Làng Ph- xã Y T- huyện L- tỉnh Y.
Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam.
Con ông Lương Hồng Th và bà Mông Thị D, hiện đang sinh sống tại thôn Làng Phạ- xã Y T- huyện L- tỉnh Yên Bái. Vợ con chưa có.
Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt.
Bị hại: Anh Nguyễn Trung K 32 tuổi Nơi đăng ký HKTT: Thôn Làng Ng- xã V- huyện Y B- tỉnh Y. Tạm trú: Tổ 7 thị trấn Y Th- huyện L- tỉnh Y, có mặt.
Nguyên đơn dân sự: Anh Lương Thanh C 24 tuổi Nơi cư trú: Thôn Làng P- xã Y T- huyện L- tỉnh Y, có mặt.
Bị đơn dân sự: Anh Nguyễn Trung K 32 tuổi Nơi đăng ký HKTT: Thôn Làng Ng- xã V- huyện Y B- tỉnh Y. Tạm trú: Tổ 7 thị trấn Y Th- huyện L- tỉnh Y, có mặt.
Người tham gia tố tụng khác Người làm chứng:
1. Anh Nguyễn Phúc C;
Nơi cư trú: Tổ 2 thị trấn Y Th- huyện L- tỉnh Y, có mặt.
2. Anh Nguyễn Văn Th;
Nơi cư trú: Tổ dân phố 2A thị trấn P- huyện B- tỉnh L, vắng mặt.
3. Chị Mào Thị M;
Nơi cư trú: Đội 1 xã M- huyện T- tỉnh Đ, vắng mặt.
4. Chị Bế Thị M1;
Nơi cư trú: Thôn Đồng C- xã Y T- huyện L- tỉnh Y, vắng mặt.
5. Anh Nguyễn Văn H;
Nơi cư trú: Tổ 2 thị trấn Y Th- huyện L- tỉnh Y, vắng mặt.
6. Anh Đặng Ngọc Th1;
Nơi cư trú: Tổ 9 thị trấn Y Th- huyện L- tỉnh Y, có mặt.
7. Chị Quàng Thị H;
Nơi cư trú: Bản Chiềng Kh- thị trấn T- tỉnh Đ, có mặt.
8. Chị Quàng Thị H;
Nơi cư trú: Xã Mường Kh- huyện T- tỉnh Đ, vắng mặt.
9. Anh Nguyễn Ngọc Q.
Nơi cư trú: Tổ 11 phường YN- Th phố YB- tỉnh Y, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 23 giờ 00 phút ngày 26-11-2020, Nguyễn Trung K điều khiển xe mô tô (Không có BKS) chở Nguyễn Văn Th đi từ nơi ở ra quán nướng Trốn Vợ thuộc tổ 11 thị trấn Y Th- huyện L. Trên đường đi K nhìn thấy Lương Tiến Th chở Quàng Thị H; Quàng Thị H và Mào Thị M (Đều tạm trú tại tổ 7 thị trấn Y Th- huyện L) đi qua nên K nghĩ là Th đưa nhân viên đi làm tại quán Karaoke. Sau đó K điều khiển xe mô tô chở Th đi sau, khi đi đến quán Karaoke Mộng Du thuộc tổ 2 thị trấn Y Th- huyện L thì thấy Th dừng lại trước cửa quán để H, H1 xuống xe đi vào quán trước, còn M ngồi trên xe mô tô của Th. Khi Th vừa xuống xe thì K, Th đi tới, K xuống xe tiến về phía Th dùng tay trái khoác vai Th và nói: “Sao mày cho nhân viên đi làm” Th trả lời: “Tao cho mấy đứa em đi hát thôi” nghe thấy vậy, K dùng tay phải đánh vào mặt Th, hai bên xảy ra xô sát đánh nhau K dùng tay đấm Th. Nguyễn Văn Th đi cùng K cũng lao vào dùng tay, chân đánh Th. Lúc này Lương Thanh C là em trai Th từ trong quán Karaoke đi ra can ngăn thì bị K dùng tay phải đấm một phát trúng vào mắt phải. Sau đó Kiên, Th, Th, C lao vào đánh nhau. Lương Tiến Th dùng một chùm chìa khóa, trong đó có một chiếc kéo bằng kim loại (Loại kéo cắt móng tay dài 10,6 cm) nắm trong lòng bàn tay phải vả (đập) một phát trúng vào vùng tai, cổ trái của Th và đập một nhát trúng vào vùng trán bên trái phía trên lông mày trái của K làm chiếc kéo bị gẫy phần lưỡi và cắm tại trán bên trái của K. Th và K bỏ chạy, C nhặt gạch ném về hướng Th và K đang chạy nhưng không trúng. K dùng điện thoại gọi cho Nguyễn Phúc C đến tìm đánh Th và C. Khi đến C nhặt một đoạn gậy gỗ ở ven đường và dùng gậy vụt một nhát trúng vào lưng Th; Th và C liền bỏ chạy. C tiếp tục dùng gậy gỗ đập vỡ phần đầu xe mô tô BKS 21C1-270.57 của Th đang dựng ở lề đường trước cửa quán Karaoke Mộng Du. Khi đi cách hiện trường 30m, C vứt chiếc gậy gỗ ở lề đường. K được đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Y.
Vật chứng, đồ vật thu giữ, tạm giữ:
- 01 vật kim loại, một đầu sắc nhọn, màu xám, có dính dịch màu nâu đỏ kích thước 4,6 cm x 01 cm; 01 viên gạch không rõ hình dạng kích thước 8cm x 6cm x 4cm; 01 tay cầm kéo kim loại; 01 ốp đèn pha xe mô tô; 01 viên gạch màu đỏ hình lục giác kích thước 23 cm x 20 cm x 4cm bám dính chất màu nâu đỏ; 01 áo khoác màu xanh, đen bên trên có bám dính chất dịch màu nâu đỏ; 01 xe mô tô BKS 21C1-270.57 nhãn hiệu HON DA màu sơn đen- bạc, loại WAVEALPHA, số khung RLHJA 391XKY320591, số máy JA39E1184947, cụm đèn pha chiếu sáng, ốp bảo vệ đầu xe mô tô, bảng đồng hồ xe mô tô bị vỡ, xe cũ đã qua sử dụng.
Tại bản Kết luận giám định pháp y về thương tích số 15/TgT ngày 24-12- 2020 của Trung tâm pháp y tỉnh Y kết luận về thương tích đối với anh Nguyễn Trung K như sau:
1. Dấu hiệu chính qua giám định:
- Vỡ xương sọ vùng trán trái (Khe hở xương nhỏ xuyên Th xoang trán trái).
- Sẹo vùng trán trái kích thước 0,7 cm x 0,1 cm.
- Vết thay đổi sắc tố da vùng mi mắt trái đường kính 0,5 cm.
- Sẹo vùng dưới mi mắt trái kích thước 1,5 cm x 0,1 cm.
- Mắt trái không có tổn thương thực thể.
2. Kết luận: Sức khoẻ bị giảm do thương tích gây nên của Nguyễn Trung K hiện tại là 16% (Mười sáu phần trăm).
3. Cơ chế hình thành thương tích:
- Sẹo vùng trán trái + vỡ xương sọ vùng trán trái là do vật sắc nhọn tác động một lực mạnh theo hướng từ trên xuống dưới, từ trái sang phải gây nên.
- Vết thay đổi sắc tố da tại bờ trên ngoài mi mắt trái là do vật tày tác động một lực vừa đủ theo hướng trực diện gây nên.
- Sẹo mi mắt dưới bên trái là do vật tày tác động một lực vừa đủ theo hướng trực diện gây nên (Bút lục số 139-140).
Tại bản Kết luận giám định pháp y về thương tích số 33/TgT ngày 17-02-2021 của Trung tâm pháp y tỉnh Y kết luận đối với anh Lương Thanh C như sau:
1. Dấu hiệu chính qua giám định:
Vùng mặt, vùng mắt phải, vùng chẩm, vùng cổ gáy, vùng tai phải, vùng vai trái, vùng lưng phải hiện tại không còn dấu vết thương tích.
2. Kết luận: Sức khoẻ bị giảm do thương tích gây nên của Lương Thanh C hiện tại là 00 % (Không phần trăm).
3. Cơ chế hình thành thương tích:
Trên cơ thể của Lương Thanh C hiện tại không còn dấu vết thương tích nên không xác định được cơ chế hình thành thương tích (Bút lục số 176-177).
Tại bản kết luận định giá tài sản số 01 ngày 06-01-2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện L- tỉnh Y đã kết luận: Cụm đèn pha chiếu sáng, ốp bảo vệ đầu xe mô tô, bảng đồng hồ xe mô tô bị vỡ gắn liền với 01 xe mô tô BKS 21C1-270.57 nhãn hiệu HON DA, màu sơn đen- bạc, loại WAVEALPHA, số khung RLHJA391XKY320591, số máy JA39E1184947, xe cũ đã qua sử dụng có giá trị là 1.200.000 đồng (Bút lục số 32).
Tại bản cáo trạng số 08/CT-VKS-LY ngày 02-4-2021, Viện Kiểm sát nhân dân huyện L- tỉnh Y đã truy tố Lương Tiến Th về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 điều 134 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên toà, trong phần tranh luận đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện L giữ nguyên quyết định truy tố; đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố Lương Tiến Th phạm tội “Cố ý gây thương tích” và áp dụng điểm đ khoản 2 điều 134; điểm b, điểm e, điểm s khoản 1 và khoản 2 điều 51; điều 65 Bộ luật Hình sự, xử phạt Lương Tiến Th từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù cho hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách theo quy định của pháp luật. Đồng thời đề nghị áp dụng các quy định của pháp luật buộc Lương Tiến Th phải bồi thường thiệt hại cho anh Nguyễn Trung K; buộc anh Nguyễn Trung K phải bồi thường thiệt hại cho anh Lương Thanh C; xử lý vật chứng của vụ án; buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm, án phí dân sự sơ thẩm; buộc bị đơn dân sự phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
Cũng tại phiên tòa, bị hại Nguyễn Trung K khẳng định chính Lương Tiến Th là người gây thương tích cho anh vào đêm 26-11-2020. Nguyên nhân dẫn đến sự việc xô xát là do thấy Th chở Quàng Thị H, Quàng Thị H1 và Mào Thị M vào quán Karaoke; nghĩ là Th đưa nhân viên đi làm tại quán ảnh hưởng đến công việc của K nên K đã đến đánh Th trước sau đó Nguyễn Văn Th đi cùng K cũng lao vào dùng tay, chân đánh Th. Khi Lương Thanh C là em trai Th từ trong quán Karaoke đi ra can ngăn thì bị K dùng tay phải đấm một phát trúng vào mắt phải. Nguyễn Trung K thừa nhận mình có lỗi dẫn đến hậu quả trên. K cho rằng sau khi sự việc xảy ra, Th và gia đình chưa bồi thường thiệt hại và cũng không hề thăm hỏi K. Bị hại không nhất trí với quan điểm của đại diện Viện Kiểm sát đề nghị cho bị cáo được hưởng án treo. Nguyễn Trung K đề nghị Toà án xét xử Lương Tiến Th và buộc Th phải bồi thường thiệt hại về sức khoẻ theo quy định của pháp luật.
Bị đơn dân sự- anh Lương Thanh C khẳng định khi thấy Nguyễn Trung K và Nguyễn Văn Th đánh Lương Tiến Th, anh vào can ngăn thì bị Nguyễn Trung K đấm một phát vào vùng mắt phải. Sau khi bị đánh, anh đã đi khám, chiếu chụp tại Bệnh viện đa khoa Hùng Vương- Phú Thọ. Tại phiên toà anh giữ nguyên quan điểm yêu cầu Nguyễn Trung K phải bồi thường tổn hại về sức khỏe số tiền là 7.000.000 đồng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đảm bảo đúng trình tự, thủ tục pháp luật quy định.
[2] Về tội danh và hình phạt: Qúa trình xét hỏi Lương Tiến Th khai nhận khoảng 23 giờ ngày 26-11-2020 đã bị Nguyễn Trung K và Nguyễn Văn Th đánh vô cớ trước cửa quán Karaoke Mộng Du thuộc tổ 2- thị trấn Y Th- huyện L. Trong lúc xô sát Th cầm chùm chìa khóa bên trong có một chiếc kéo bằng kim loại (Loại kéo cắt móng tay dài 10,6 cm) nắm trong lòng bàn tay phải đánh lại về phía trước không nhớ bao nhiêu nhát; do đêm tối cũng không nhằm vào đâu, không biết trúng vào ai. Chỉ sau này khi làm việc với Cơ quan điều tra và được thông báo kết luận giám định Th mới biết đã đập trúng Nguyễn Văn Th và đập trúng Nguyễn Trung K, làm chiếc kéo bị gẫy phần lưỡi cắm tại trán bên trái của K, gây thương tích cho K.
Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại; lời khai của những người làm chứng; phù hợp với kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ. Mặc dù nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm nhưng bị cáo vẫn cố tình thực hiện nhằm thoả mãn sự bức xúc cá nhân, dẫn đến hậu quả làm cho anh Nguyễn Trung K bị mất 16% sức khoẻ. Hành vi của bị cáo dùng chùm chìa khoá trong đó có chiếc kéo nhọn (Theo quy định của pháp luật là loại hung khí nguy hiểm) đập trúng vào vùng trán bên trái phía trên lông mày trái của K là nghiêm trọng, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền được bảo hộ về sức khoẻ của con người, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an trên địa bàn. Do đó có đủ cơ sở kết luận Lương Tiến Th phạm tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 điều 134 Bộ luật Hình sự.
Xét về nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự thấy rằng:
Lương Tiến Th là người lao động, chưa có tiền án, tiền sự.
Sau khi sự việc xảy ra, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, bị cáo và gia đình đã tự nguyện bồi thường cho bị hại số tiền 10.000.000 đồng tuy nhiên anh Nguyễn Trung K từ chối gặp gỡ thoả thuận việc bồi thường (Số tiền bị cáo và gia đình bồi thường hiện đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện L).
Khi gặp nhau Nguyễn Trung K đã dùng tay đánh vào mặt Lương Tiến Th; Nguyễn Văn Th đi cùng Kcũng lao vào dùng tay, chân đánh Th. Khi Lương Thanh C là em trai Th từ trong quán Karaoke đi ra can ngăn thì bị K dùng tay phải đấm một phát trúng vào mắt phải. Do bị đánh nên Lương Tiến Th dùng một chùm chìa khóa, trong đó có một chiếc kéo bằng kim loại nắm trong lòng bàn tay phải đập một nhát trúng vào vùng trán bên trái phía trên lông mày trái của K làm chiếc kéo bị gẫy phần lưỡi và cắm tại trán bên trái của K. Như vậy K là người chủ động trong việc xô xát; nguyên nhân dẫn đến sự việc xuất phát từ chính hành động của K, do đó hành vi của bị cáo được coi là phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra. Quá trình điều tra cũng như tại phiên toà bị cáo Th khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Các tình tiết giảm nhẹ này được quy định tại điểm b, điểm e, điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật Hình sự. Mặt khác Lương Tiến Th có ông nội là Lương Hồng Ph và bà nội Sầm Thị T được tặng thưởng Huy chương Kháng chiến Hạng Nhì; tình tiết giảm nhẹ này được quy định tại khoản 2 điều 51 Bộ luật Hình sự.
Như vậy bị cáo có nhân thân tốt; có nơi thường trú rõ ràng. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điều 52; có tới 03 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 và 01 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 điều 51 Bộ luật Hình sự. Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát, không cần thiết phải cách ly Lương Tiến Th ra khỏi xã hội cũng có thể giáo dục cải tạo bị cáo Th công dân có ích cho xã hội, đồng thời thể hiện chính sách khoan hồng của Đảng và Nhà nước đối với người lao động nhất thời phạm tội.
[3] Các hành vi và đối tượng có liên quan:
Quá trình xô xát, Lương Tiến Th dùng một chùm chìa khóa, trong đó có một chiếc kéo bằng kim loại nắm trong lòng bàn tay phải vả (đập) một phát trúng vào vùng tai, cổ trái của Th tuy nhiên Th có đơn từ chối giám định thương tích và không yêu cầu đề nghị gì, do vậy không xem xét xử lý hình sự Lương Tiến Th về hành vi này.
Đối với Nguyễn Trung K: Quá trình xô xát K đã có hành vi dùng tay đánh vào mặt Lương Tiến Th và đấm vào mắt của Lương Thanh C, tuy nhiên không gây thương tích cho Th và C. Quá trình điều tra Th và C không yêu cầu đề nghị gì nên không xem xét xử lý đối với K theo quy định tại điều 134 Bộ luật hình sự.
Đối với Nguyễn Văn Th: Quá trình xô xát Th có hành vi dùng chân, tay đánh Th tuy nhiên không gây thương tích cho Th. Quá trình điều tra Th không có yêu cầu đề nghị gì nên không xem xét xử lý đối với Th theo quy định tại điều 134 Bộ luật hình sự.
Đối với Lương Thanh C là người có tham gia xô xát đánh nhau nhưng không gây thương tích cho ai nên không xem xét xử lý đối với C theo quy định tại điều 134 Bộ luật hình sự.
Đối với Nguyễn Phúc C là người dùng một đoạn gậy gỗ vụt vào lưng Lương Tiến Th và dùng gậy đập vỡ phần đầu xe mô tô BKS 21C1- 270.57 của Th. Quá trình điều tra Th không yêu cầu đề nghị gì nên không xem xét xử lý đối với C theo quy định tại điều 134 Bộ luật hình sự. Kết luận định giá tài sản xác định tổng giá trị phần chiếc xe mô tô của Th bị C làm hư hỏng là 1.200.000 đồng (Một triệu hai trăm nghìn đồng) nên chưa đủ căn cứ để xử lý đối với C theo quy định tại điều 178 Bộ luật hình sự; riêng phần trách nhiệm dân sự hai bên đã thoả thuận giải quyết xong.
Các hành vi trên của Nguyễn Trung K, Nguyễn Văn Th, Lương Thanh C và Nguyễn Phúc C là vi phạm pháp luật nhưng chưa đến mức phải xử lý hình sự nên Công an huyện L đã ra quyết xử phạt vi phạm hành chính đối với những người này là đúng quy định pháp luật (Bút lục số 149, 207, 183, 216).
[4] Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại:
- Sau khi sự việc xảy ra, anh Nguyễn Trung K đã được đưa đi điều trị tại bệnh viện đa khoa tỉnh Y từ ngày 27-11-2020 đến ngày 01-12-2020. Quá trình điều tra, truy tố anh K yêu cầu Lương Tiến Th phải bồi thường tổn hại về sức khỏe số tiền 200.000.000 đồng. Lương Tiến Th không nhất trí với mức đề nghị trên của bị hại và đề nghị xem xét giải quyết theo quy định của pháp luật.
- Anh Lương Thanh C được đưa đi khám tại Bệnh viện đa khoa Hùng Vương- Phú Thọ. Quá trình điều tra, truy tố, nguyên đơn dân sự là anh Lương Thanh C yêu cầu Nguyễn Trung K phải bồi thường tổn hại về sức khỏe số tiền là 7.000.000 đồng nhưng anh Nguyễn Trung K không nhất trí.
Xét yêu cầu bồi thường thiệt hại về sức khoẻ của anh Nguyễn Trung K đối với Lương Tiến Th và yêu cầu bồi thường thiệt hại của anh Lương Thanh C đối với Nguyễn Trung K:
Theo quy định tại khoản 1 điều 584 Bộ luật Dân sự thì “Người nào có hành vi xâm phạm sức khỏe …, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác”. Thực tế trong vụ án này xuất phát từ việc không kiềm chế được bản thân dẫn đến xô xát, hậu quả Lương Tiến Th gây thương tích cho anh Nguyễn Trung K làm anh K bị tổn hại 16% sức khỏe; khi Lương Thanh C vào can ngăn thì bị Nguyễn Trung K dùng tay đánh. Như vậy yêu cầu bồi thường thiệt hại của bị hại và của nguyên đơn dân sự là có căn cứ.
Về mức bồi thường:
Theo quy định tại khoản 1 và khoản 4 điều 91 Bộ luật Tố tụng dân sự về nghĩa vụ chứng minh thì: “Đương sự có yêu cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp”; nếu “Đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì Tòa án giải quyết vụ việc dân sự theo những chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ việc ”.
Tại điểm a khoản 5 mục I Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08-7- 2006 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân Tối Cao hướng dẫn áp dụng 1 số quy định của Bộ luật dân sự về bồi thường thiệt hai ngoài hợp đồng cũng quy định:
“Người bị thiệt hại yêu cầu bồi thường thiệt hại phải nêu rõ từng khoản thiệt hại thực tế đã xảy ra, mức yêu cầu bồi thường và phải có chứng từ hoặc giấy biên nhận hợp lệ về các khoản chi phí hợp lý, về thu nhập của người bị thiệt hại”.
Mặc dù yêu cầu Lương Tiến Th bồi thường số tiền 200.000.000 đồng tuy nhiên trong quá trình điều tra, truy tố, ngoài bảng kê chi phí điều trị nội trú với tổng số tiền là 5.885.500 đồng và giấy biên nhận thuê xe ô tô chở đi Bệnh viện đa khoa tỉnh Y số tiền 2.500.000 đồng, anh Nguyễn Trung K không cung cấp được thêm một chứng cứ nào khác để để chứng minh cho yêu cầu của mình.
Anh Lương Thanh C cũng chỉ cung cấp được một phiếu chi và một hoá đơn giá trị gia tăng về chi phí khám chữa bệnh tại Bệnh viện đa khoa Hùng Vương với số tiền 1.833.000 đồng, ngoài ra không có chứng cứ nào khác.
Đối chiếu với những quy định của pháp luật; những chứng cứ có trong hồ sơ và yếu tố lỗi của bị hại; Hội đồng xét xử chỉ chấp nhận một phần yêu cầu bồi thường thiệt hại của bị hại và nguyên đơn dân sự, cụ thể như sau:
- Buộc Lương Tiến Th phải bồi thường cho Nguyễn Trung K các khoản gồm:
+ Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa (Có chứng từ; giấy biên nhận):
8.385.000 đồng; chi phí bồi dưỡng phục hồi sức khoẻ: 5.000.000 đồng;
+ Khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần tương đương 06 lần mức lương cơ sở là 6 x 1.490.000 đồng = 8.940.000 đồng.
Tổng cộng = 22.325.000 đồng. Xác nhận bị cáo đã tự nguyện nộp tiền bồi thường thiệt hại trước khi mở phiên toà là 10.000.000 đồng. Số tiền bị cáo còn phải bồi thường tiếp cho anh K là 12.325.000 đồng.
- Buộc anh Nguyễn Trung K phải bồi thường thiệt hại cho anh Lương Thanh C số tiền (Có chứng từ hoá đơn) là 1.833.000 đồng.
[5] Về vật chứng của vụ án:
Xác nhận Cơ quan cảnh sát điều tra- Công an huyện L đã trả lại cho Lương Tiến Th: 01 xe mô tô BKS 21C1- 270.57 loại xe hai bánh, nhãn hiệu HON DA, màu sơn đen- bạc, số loại WAVEALPHA. số khung: RLHJA391XKY 320591, số máy: JA39E1184947, cụm đèn pha chiếu sáng, ốp bảo vệ đầu xe mô tô, bảng đồng hồ xe mô tô bị vỡ (Bút lục số 99).
Trong quá trình điều tra, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện L đã thu giữ 01 vật kim loại, một đầu sắc nhọn, màu xám, có dính dịch màu nâu đỏ kích thước 4,6 cm x 01 cm; 01 viên gạch không rõ hình dạng, kích thước 8cm x 6cm x 4cm; 01 tay cầm kéo bằng kim loại kích thước 6cm x 3cm; 01 ốp đèn pha xe mô tô; 01 viên gạch màu đỏ hình lục giác kích thước 23 cm x 20 cm x 4cm bám dính chất màu nâu đỏ; 01 áo khoác màu xanh, đen bên trên có bám dính chất màu nâu đỏ, xét thấy không có giá trị cần tịch thu tiêu huỷ.
[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm; án phí dân sự sơ thẩm đối với số tiền còn phải tiếp tục bồi thường cho bị hại. Bị đơn dân sự- anh Nguyễn Trung K phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với số tiền bồi thường cho anh Lương Thanh C theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên
QUYẾT ĐỊNH
1- Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lương Tiến Th phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
2- Về hình phạt: Căn cứ điểm đ khoản 2 điều 134; điểm b, điểm e, điểm s khoản 1 và khoản 2 điều 51; điều 65 Bộ Luật Hình sự; xử phạt Lương Tiến Th 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 05 (Năm) năm kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Giao Lương Tiến Th cho UBND xã Y T- huyện L- tỉnh Y và gia đình bị cáo giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
Trong trường hợp Lương Tiến Th thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại điều 68, điều 92 của Luật Thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Toà án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
3- Về bồi thường thiệt hại: Căn cứ điều 48 Bộ luật hình sự; điều 357; khoản 1 điều 584; điều 585; khoản 1 điều 586; điều 590 Bộ luật Dân sự:
- Buộc Lương Tiến Th phải bồi thường cho anh Nguyễn Trung K số tiền là 22.325.000đ (Hai mươi hai triệu ba trăm hai mươi lăm ngàn đồng). Xác nhận Lương Tiến Th đã bồi thường 10.000.000đ (Mười triệu đồng), số tiền này gia đình bị cáo đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện L- tỉnh Y theo biên lai số AA/2013/01580 ngày 12-5-2021. Lương Tiến Th còn phải bồi thường tiếp cho anh Ksố tiền 12.325.000đ (Mười hai triệu ba trăm hai mươi lăm ngàn đồng).
- Buộc Nguyễn Trung K phải bồi thường cho anh Lương Thanh C số tiền là 1.833.000đ (Một triệu tám trăm ba mươi ba ngàn) đồng.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015 trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
4- Về xử lý vật chứng của vụ án: Căn cứ điểm c khoản 2 điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu huỷ 01 vật kim loại, một đầu sắc nhọn, màu xám, có dính dịch màu nâu đỏ kích thước 4,6 cm x 01 cm; 01 viên gạch không rõ hình dạng kích thước 8cm x 6cm x 4cm; 01 tay cầm kéo kim loại; 01 ốp đèn pha xe mô tô; 01 viên gạch màu đỏ hình lục giác kích thước 23 cm x 20 cm x 4cm bám dính chất màu nâu đỏ;
01 áo khoác màu xanh, đen bên trên có bám dính chất dịch màu nâu đỏ (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 08-4-2021 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện L- tỉnh Y).
5- Về án phí: Căn cứ khoản 2 điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, c, g khoản 1 điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; buộc Lương Tiến Th phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 616.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Tổng cộng là 816.000đ (Tám trăm mười sáu ngàn đồng).
Anh Nguyễn Trung K phải chịu 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
6- Quyền kháng cáo: Căn cứ các điều 331, 332, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; bị cáo, bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự có quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
7- Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tội cố ý gây thương tích số 11/2021/HS-ST
Số hiệu: | 11/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Lục Yên - Yên Bái |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 16/06/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về