Bản án về tội cố ý gây thương tích số 10/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẮK SONG, TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 10/2024/HS-ST NGÀY 02/02/2024 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 02 tháng 02 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 05/2024/HSST ngày 18 tháng 01 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 05/2024/QĐXXST - HS ngày 22/01/2024 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nông Văn N, sinh năm 1974 tại tỉnh Cao Bằng; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Bản Đắk T, xã Thuận H, huyện Đắk S, tỉnh Đắk Nông; Nơi ở: Thôn 06, xã Trường X, huyện Đắk S, tỉnh Đắk Nông; Dân tộc: Tày; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ học vấn lớp 02/12; Con ông Nông Quang V và bà Nông Thị K (đều đã chết); Vợ là Tô Thị Nh, sinh năm: 1981 và có 03 con (lớn nhất sinh năm 2000, nhỏ nhất sinh năm 2007);

Hiện cư trú tại: Thôn 06, xã Trường X, huyện Đắk S, tỉnh Đắk Nông; Tiền án: (02): Ngày 24/6/2009, bị TAND huyện Đắk Song xử phạt 09 tháng tù về tội “Công nhiên chiếm đoạt tài sản” và ngày 20/7/2011 bị TAND tỉnh Đắk Nông xét xử phúc thẩm, xử phạt 08 năm tù về tội “Hủy hoại rừng” (Bị cáo chưa chấp hành xong bản án); Tiền sự: Không; Ngày 16/10/2023 bị Cơ quan CSĐT Công an huyện Đắk Song bị bắt tạm giam - Có mặt tại phiên tòa.

1. Bị hại: Anh Trần Văn L, sinh năm: 1988, trú tại: Thôn 06, xã Trường X, huyện Đắk S, tỉnh Đắk Nông – vắng mặt.

2. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

2.1. Bà Tô Thị Nh, sinh năm 1981. Địa chỉ: Thôn 6, xã Trường X, huyện Đắk S, tỉnh Đắk Nông – có mặt.

2.2. Anh Nông Minh H, sinh năm 2000. Địa chỉ: Thôn 06, xã Trường X, huyện Đắk S, tỉnh Đắk Nông – vắng mặt.

3. Người làm chứng:

Anh Nguyễn Văn T, sinh năm: 1988. Địa chỉ: Thôn 06, xã Trường X, huyện Đắk S, tỉnh Đăk Nông – vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 18 giờ 00’ ngày 30/01/2022, anh Nguyễn Văn T tổ chức ăn cơm, uống rượu tại nhà thuộc thôn 6, xã Trường X, huyện Đắk S, tỉnh Đắk Nông thì mời một số người đến dự, trong đó có anh Trần Văn L và bị cáo Nông Văn N. Tất cả ngồi ăn uống đến khoảng 20 giờ 00’cùng ngày thì giữa anh Trần Văn L với bị cáo xảy ra mâu thuẫn dẫn đến cãi nhau. Anh L dùng tay tát vào mặt bị cáo 01 cái thì bị cáo lao vào dùng tay, chân đấm đá với anh L. Thấy anh L và bị cáo đánh nhau thì những người ngồi gần đó đến can ngăn. Tuy nhiên, anh L vẫn lao đến tiếp tục đánh bị cáo thì bị cáo lấy 01 cờ lê dài 17cm để sát vách ván nhà anh T cầm đập 02 đến 03 phát vào vùng đầu, mặt của anh L, dẫn đến anh L bị thương. Tại thời điểm này anh L vẫn còn tỉnh táo nên không phải đến bệnh viện điều trị. Sau khi đánh L xong, bị cáo cầm cờ lê đi về nhà mình, cách nhà anh T khoảng 80m.

Đến khoảng 21 giờ 00’cùng ngày, anh L chạy xe máy rời khỏi nhà anh T để về nhà của mình. Trên đường đi ngang qua nhà bị cáo N, thấy cửa đang mở, nghĩ đến việc bị cáo đánh mình trước đó nên anh L bực tức, đi vào nhà để đánh lại. Anh L lấy ở hàng rào 01 gậy gỗ (dạng cây gòn) dài khoảng 01m, đường k ính khoảng 03cm đi thẳng vào cửa chính. Thấy bị cáo đang ngồi gần cửa xuống bếp thì cầm gậy đi đến giơ lên đánh về phía bị cáo. Lúc này bà Tô Thị Nh (vợ bị cáo N) và anh Nông Minh H (con của bị cáo N) đứng gần đó thấy vậy nên chạy vào can ngăn, đỡ phát đánh của L thì gậy trúng vào người bà N h, anh H (không gây thương tích).

Bị cáo N thấy vợ, con mình bị anh L đánh thì đứng dậy đi xuống nhà bếp, lấy 01 con dao dài 37cm, cán bằng gỗ, lưỡi dao bằng k im loại, cầm bằng tay phải đến vị trí của anh L đang đứng, vung dao từ trên xuống dưới, chém nhiều phát liên tiếp thì lưỡi dao trúng vào tay anh L. Anh L bỏ chạy ra ngoài sân, đến gần hàng rào lưới B40, cách cửa nhà N 12m thì bị vấp ngã xuống đất. Bị cáo cầm dao đuổi theo phía sau, lao đến tiếp tục chém nhiều phát về phía anh L, thì anh L giơ hai tay, chân lên đỡ theo tư thế nằm nửa nên các phát chém của bị cáo trúng vào ngón tay, cẳng tay, bắp tay, bả vai và chân. Lúc này những người xung quanh chạy đến ca n ngăn, đồng thời đưa anh Trần Văn L đi cấp cứu.

Tại bản kết luận giám định số: 213/KLTTCT -TTPY ngày 21/8/2023 của Trung tâm Pháp y tỉnh Đắk Nông kết luận, anh Trần Văn L bị các tổn thương gồm: 01 sẹo phần mềm vùng thái dương phải kích thước nhỏ, tỷ lệ 01% ; 01 sẹo phần mềm gò má trái (sẹo vùng mặt) kích thước nhỏ, tỷ lệ 03%; 02 sẹo phần mềm mặt trước vai phải kích thước trung bình và nhỏ, tỷ lệ 03%; mẻ xương đòn phải, tỷ lệ 01%; tổn thương bán phần thần kinh trụ tay phải, tỷ lệ 21%; 01 sẹo phần mềm cẳng tay phải kích thước trung bình, tỷ lệ 02%; 01 sẹo phần mềm mặt lòng ngón I bàn tay trái kích thước nhỏ, tỷ lệ 01%; khuyết mất đốt 3 ngón II bàn tay trái, tỷ lệ 03%; 01 sẹo phần mềm mặt trước gối phải kích thước nhỏ, tỷ lệ 01%; Đứt bán phần gân bánh chè phải đã khâu nối kết quả tốt, tỷ lệ 06%; 01 sẹo phần mềm đùi trái kích thước trung bình, tỷ lệ 02%. Tổng tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của anh Trần Văn L tại thời điểm giám định là: 37% (Ba mươi bảy phần trăm).

Tại bản Cáo trạng số 08/CT-VKS-ĐS ngày 17/01/2024 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đắk Song đã truy tố bị cáo Nông Văn N về tội "Cố ý gây thương tích", theo điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật Hình sự.

Kết quả xét hỏi tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và thừa nhận VKSND huyện Đăk Song truy tố bị cáo là đúng, không oan.

Kết quả tranh luận tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo như nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX): Tuyên bố bị cáo Nông Văn N phạm tội "Cố ý gây thương tích”. Áp dụng điểm c khoản 3 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Xử phạm bị cáo từ 06 đến 07 năm tù. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 48 Bộ luật hình sự và các Điều 584, 585, 590 Bộ luật dân sự: Chấp nhận việc tự nguyện thỏa thuận bồi thường thiệt hại về sức khỏe giữa người bị hại Trần Văn L và bị cáo Nông Văn N với số tiền 60.000.000 đồng. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Đối với 01 con dao dài 37cm, cán bằng gỗ, lưỡi dao bằng kim loại bị cáo Nông Văn N sử dụng vào việc phạm tội, cần tịch thu tiêu hủy. Đối với 01 cờ lê màu trắng, dài 17cm, bị cáo lấy của anh Nguyễn Văn T đánh anh Trần Văn L. Ngày 22/02/2022, Công an xã Trường Xuân đã trả lại cho anh Nguyễn Văn T nên không xử lý. Đối với 01 gậy gỗ anh Trần Văn L sử dụng để đánh bị cáo, hiện đã bị thất lạc. Cơ quan CSĐT Công an huyện Đắk Song đã tổ chức truy tìm nhưng không có kết quả nên không đề cập giải quyết.

Tại phiên tòa bị cáo không bào chữa gì về hành vi phạm tội của mình mà chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối với hành vi phạm tội của bị cáo Hội đồng xét xử thấy rằng: Vào khoảng thời gian từ 18 đến 21 giờ 00’ ngày 30/01/2022 tại thôn 6, xã Trường X, huyện Đắk S, tỉnh Đắk Nông do có mâu thuẫn trước đó với mình. Đồng thời, anh Trần Văn L có hành vi đánh bị cáo trước và đánh vợ, con bị cáo. Do bực tức nên bị cáo Nông Văn N đã sử dụng con dao là hung khí nguy hiểm chém nhiều nhát vào người anh Trần Văn L gây thương tích lỷ lệ tổn thương 37%. Vì vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích”, theo điểm c khoản 3 Điều 134 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật Hình sự quy định:

1. Người nào cố ý gây thương tích của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Dùng hung khí nguy hiểm;

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:

c) Gây thương tích cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này”.

[3] Xét hành vi phạm tội của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo nhận thức được sức khỏe, tính mạng, tài sản của người khác là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ, nhưng bị cáo vẫn cố tình thực hiện. Bị cáo đã sử dụng hung khí nguy hiểm để gây thương tích làm thiệt hại đến sức khỏe của người bị hại. Hành vi này làm ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần xử phạt bị cáo mức hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.

[4] Về nhân thân của bị cáo và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Bị cáo đã bồi thường thiệt hại và được bị hại xin giảm nhẹ hình phạt. Vụ việc xảy ra có một phần lỗi của người bị hại. Vì vậy, cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo có 02 tiền án về các tội “Công nhiên chiếm đoạt tài sản” và “Hủy hoại rừng”, chưa chấp hành xong các quyết định khác của bản án nên chưa được xóa án tích, do vậy thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm theo điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

[6] Đối với hành vi đánh bị cáo Nông Văn N và hành vi cầm gậy đánh vào người bà Tô Thị Nh, anh Nông Minh H của anh Trần Văn L. Do những người này không bị thương tích và không yêu cầu xử lý nên không xem xét. Mặt khác, hành vi đánh nhau của anh Trần Văn L đến nay đã hết thời hiệu xử lý vi phạm hành chính, do đó Công an huyện Đắk Song không xử lý.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ điều 46 Bộ luật Hình sự năm 2015 và cac điều 584, 585, 590 Bô luât dân sư năm 2015: Trong quá trình điều tra bị cáo đã bồi thường thiệt hại về sức khỏe cho người bị hại số tiền 60.000.000 đồng, bị hại không yêu cầu bồi thường thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Các biện pháp tư pháp: Đối với 01 con dao dài 37cm, cán bằng gỗ, lưỡi dao bằng kim loại bị cáo Nông Văn N sử dụng vào việc phạm tội, cần tịch thu tiêu hủy. Đối với 01 cờ lê màu trắng, dài 17cm, bị cáo lấy của anh Nguyễn Văn T đánh anh Trần Văn L. Ngày 22/02/2022, Công an xã Trường Xuân đã trả lại cho anh Nguyễn Văn T nên không xử lý. Đối với 01 gậy gỗ anh Trần Văn L sử dụng để đánh bị cáo, hiện đã bị thất lạc. Cơ quan CSĐT Công an huyện Đắk Song đã tổ chức truy tìm nhưng không có kết quả nên không đề cập giải quyết.

[9] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

[10] Về quyền kháng cáo: Bị cáo và đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định pháp luật.

[11] Xét quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về tội danh và mức hình phạt áp dụng đối với bị cáo là có căn cứ, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nông Văn N phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Áp dụng điểm c khoản 3 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Nông Văn N 06 (Sáu) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam (16/10/2023).

* Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 2015 và cac Điều 584, 585, 590 Bô luât dân sư năm 2015: Chấp nhận sự thỏa thuận bị cáo đã bồi thường cho anh Trần Văn L số tiền 60.000.000 đồng (Sáu mươi triệu đồng).

* Về các biện pháp tư pháp: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy đối với 01 con dao dài 37cm, cán bằng gỗ, lưỡi dao bằng kim loại của bị cáo Nông Văn N.

* Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Buộc bị cáo Nông Văn N phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự.

* Về quyền kháng cáo:

Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày Tòa án tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ bản án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày Tòa án tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

7
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 10/2024/HS-ST

Số hiệu:10/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đắk Song - Đăk Nông
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:02/02/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về