TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN ĐỊNH, TỈNH THANH HÓA
BẢN ÁN 10/2024/HS-ST NGÀY 30/01/2024 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Trong ngày 30 tháng 01 năm 2024, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh T xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 08/2024/TLST - HS ngày 16 tháng 01 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 12/2024/QĐXXST - HS ngày 19 tháng 01 năm 2024 đối với bị cáo:
Họ và tên: Vũ Văn H, sinh ngày 20 tháng 10 năm 2003 tại Thị trấn C, huyện Đ, tỉnh T. Nơi cư trú: Tổ dân phố B, Thị trấn C, huyện Đ, tỉnh T; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 09/12; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Vũ Đình H (đã chết) và bà: H Thị Thu, sinh năm: 1969; Gia đình bị cáo có 02 anh em, bị cáo là con thứ hai; chưa có vợ con.
Tiền án, Tiền sự: Không.
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 13/12/2023 đến ngày 16/12/2023 chuyển tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Đ, tỉnh T. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
- Bị hại: Anh Trịnh Đình D, sinh năm 1985 (Có mặt).
Địa chỉ: Tổ dân phố B, Thị trấn C, huyện Đ, Thanh Hóa.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Vũ Văn H, sinh năm 1998 (Có mặt).
Địa chỉ: Tổ dân phố B, Thị trấn C, huyện Đ, T.
- Người làm chứng:
1. Bà H Thị Thu, sinh năm 1969 (Có mặt).
2. Ông Lê Văn N, sinh năm 1974 (Vắng mặt).
3. Bà Hà Thị M, sinh năm 1963 (Vắng mặt).
4. Bà Trần Thị V, sinh năm 1960 (Vắng mặt).
Đều ở tại: Tổ dân phố B, Thị trấn C, huyện Đ, tỉnh T.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 11 giờ ngày 03/10/2023, anh Vũ Văn H, sinh năm 1998 cùng mẹ là bà H Thị Thu, sinh năm 1969 đều ở tổ dân phố B, Thị trấn C, huyện Đ, tỉnh T đi làm về nhà thì thấy Vũ Văn H đang ở nhà. Thấy vậy, anh H nói H về việc không chịu đi làm, ở nhà ăn bám nên hai bên xảy ra cãi vã, lời qua tiếng lại với nhau thì H lấy 1 chiếc điếu cày làm bằng tre cầm bằng tay trái đập 01 cái vào đầu anh H làm anh H choáng và ngã tại chỗ. Khi tỉnh dậy, anh H đi đến nhà anh Trịnh Đình D, sinh năm 1985, ở tổ dân phố B, Thị trấn C, huyện Đ, tỉnh T (hiện là tổ trưởng tổ bảo vệ dân phố B, Thị trấn C, huyện Đ, tỉnh Thanh Hóa) báo cáo vụ việc bị H đánh. Sau khi tiếp nhận tin báo, anh D gọi điện báo cáo sự việc với Công an thị trấn C và được phân công đến nhà anh H. Đến nhà anh H, anh D gặp H, bà Thu cùng bà Trần Thị V, sinh năm 1960 và bà Hà Thị M, sinh năm 1963 đều ở tổ dân phố B, thị trấn C đang ở đó. Khi thấy anh H đi cùng Dương về nhà, do đang bực tức anh H nên H bực tức luôn anh D. Khi đến nơi, anh D gặp H hỏi: “Vì sao đánh anh H?” thì H không trả lời gì mà lấy luôn một chiếc điếu cày làm bằng nhựa dài 48cm, đường kính 04cm đang để gần đó cầm bằng tay trái đập ngang 01 cái trúng vào gò má trái anh D làm điếu cày bị văng ra, H tiếp tục xông vào dùng tay cào cấu vào mặt, cổ và tay của anh D. Khi được mọi người can ngăn thì H dừng lại rồi bỏ đi. Hậu quả, anh D bị các thương tích ở mặt, cổ và tay nhưng không phải đi bệnh viện điều trị (BL số 79-93, 96- 106, 119-124, 126-146).
Tại biên bản làm việc ghi dấu vết trên thân thể ngày 03/10/2023 tại Trạm y tế thị trấn C, huyện Đ xác định anh Trịnh Đình D bị các thương tích sau: 01 vết trầy xước da, chảy máu, vị trí dưới mi mắt trái, kích thước 02x0,8 (cm); 03 vết trầy xước da, chảy máu tại vị trí gò má phải, có kích thước lần lượt 02x0,3(cm), 1,5x0,3(cm), 01x0,3(cm); 01 vết trầy xước da, chảy máu tại vị trí sau dái tai phải, kích thước 05x0,3(cm), có kèm sưng tấy đỏ; 01 vết trầy xước da, chảy máu, vị trí gáy cổ trái, kích thước 05x0,3(cm); 02 vết trầy xước da, chảy máu, vị trí cẳng tay và cổ tay phải, kích thước lần lượt là 3,5x,4(cm), 0,8x0,8(cm) và một số vết sưng tấy đỏ, vị trí mặt trong cẳng tay và cổ tay phải, dạng không xác định (BL số 17-19).
Tại bản kết luận giám định tổn thương cơ thể trên người sống số 1815/KLTTCT-PYTH ngày 08/11/2023 của Trung tâm Pháp y tỉnh T, kết luận xác định tỉ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của Trịnh Đình D tại thời điểm giám định là 06% (BL số 27-29).
Ngày 24/11/2023, anh Trịnh Đình D có đơn yêu cầu khởi tố vụ án hình sự đối với việc anh D bị H đánh gây thương tích vào ngày 03/10/2023 (BL số 35).
Ngày 13/12/2023, Vũ Văn H đến Công an Thị trấn C đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình (BL số 43-45).
Qúa trình điều tra, Vũ Văn H đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của H phù hợp với lời khai của bị hại, người liên quan, người làm chứng, kết luận giám định cũng như các tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập có trong hồ sơ vụ án.
Về vật chứng vụ án: Qúa trình điều tra đã tiến hành thu giữ 01 điếu cày bằng nhựa dài 46cm, đường kính rộng 04cm, điều cày bị vỡ một đầu, mất nỏ điếu, chân điếu làm bằng kim loại. Hiện đang bảo quản tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ chờ xử lý theo quy định.
Ngoài ra, quá trình điều tra còn thu giữ một điếu cày bằng tre dài 65cm, đường kính rộng 04cm, có một đầu bọc kim loại, chân điếu làm bằng nhựa, điếu cày bị vỡ và mất nỏ. Qúa trình giải quyết vụ án xác định chiếc điều cày này là vật chứng trong vụ việc hành chính nên Cơ quan điều tra đã chuyển vật chứng trên để xử lý trong vụ việc hành chính.
Về trách nhiệm dân sự: Anh Trịnh Đình D không yêu cầu Vũ Văn H bồi thường gì.
Tại bản cáo trạng số 17/CT-VKSYĐ ngày 16/01/2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ đã truy tố Vũ Văn H về tội “Cố ý gây thương tích” theo Điểm a, k Khoản 1 Điều 134 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa: Bị cáo Vũ Văn H khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng đã truy tố.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ luận tội giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Vũ Văn H phạm tội “Cố ý gây thương tích”; Đề nghị: Áp dụng Điểm a, k Khoản 1 Điều 134, Điểm i, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự; Xử phạt: Bị cáo Vũ Văn H từ 08 tháng đến 10 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 13/12/2023; Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng Khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, Điểm a Khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy 01 điếu cày bằng nhựa dài 46cm, đường kính rộng 04cm, điếu cày bị vỡ một đầu, mất nỏ điếu, chân điếu làm bằng kim loại. Hiện đang bảo quản tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ, tỉnh T; Về trách nhiệm dân sự: Không yêu cầu nên không xem xét; Về án phí: Bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Trong phần tranh luận: Bị cáo thống nhất với quan điểm luận tội và không có tranh luận gì thêm với đại diện Viện kiểm sát. Bị hại đề nghị Hội đồng xét xử xét xử bị cáo H nghiêm theo đúng quy định của pháp luật. Bị cáo nói lời sau cùng, bị cáo không có ý kiến gì.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
[2] Về tội danh: Tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo Vũ Văn H khai nhận: Vào khoảng 11 giờ 00 phút ngày 03/10/2023, Vũ Văn H dùng chiếc điếu cày bằng tre đánh anh Vũ Văn H (là anh trai của H). Sau đó, anh H đến báo cáo sự việc cho anh Trịnh Đình D là tổ trưởng Tổ bảo vệ dân phố Tổ dân phố B, Thị trấn C, huyện Đ, tỉnh Thanh Hóa. Anh D đến nhà H để nắm tình hình vụ việc thì bị H dùng một chiếc điếu cày bằng nhựa và tay đánh, cào cấu gây thương tích cho anh Trịnh Đình D. Hậu quả anh D bị tổn thương cơ thể do thương tích gây nên là 06%. Anh D có đơn yêu cầu khởi tố vụ án hình sự. Anh H từ chối giám định thương tích và không có đơn yêu cầu khởi tố vụ án.
Lời khai nhận của bị cáo H tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với thương tích của bị hại, lời khai của người liên quan, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Vì vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hành vi của H dùng chiếc điếu cày bằng nhựa và tay đánh, cào cấu gây tổn hại sức khỏe cho anh D, là tổ trưởng Tổ bảo vệ Tổ dân phố B, Thị trấn C, huyện Đ trong khi anh D đến nắm tình hình vụ việc đánh nhau giữa H và anh H đã phạm vào tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại Điểm a, k Khoản 1 Điều 134 của Bộ luật hình sự năm 2015. Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ truy tố bị cáo H theo tội danh trên, đề nghị HĐXX áp dụng điều luật là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội:
Đây là vụ án cố ý gây thương tích có tính chất ít nghiêm trọng. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo đã xâm phạm đến quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe của con người được pháp luật bảo vệ. Bản thân bị cáo phải biết được rằng tính mạng và sức khỏe của con người là vốn quý và phải có trách nhiệm tôn trọng, bảo vệ. Nhưng vì đang bức xúc với anh H nên H cũng bực tức sang anh D, cầm điếu cày bằng nhựa đánh vào người và dùng tay cào cấu vào người anh D thể hiện sự coi thường pháp luật. Hành vi của bị cáo còn ảnh hưởng đến an ninh trật tự tại địa phương. Vì vậy, cần thiết phải xử lý thật nghiêm, để giáo dục và phòng ngừa chung.
[4] Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt:
Bị cáo H không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Bị cáo có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo đều thành khẩn khai báo. Sau khi phạm tội, bị cáo đã bỏ nhà đi làm ăn không có mặt ở địa phương. Cơ quan công an đã ra thông báo truy tìm người và sau đó bị cáo đã đến Cơ quan Công an đầu thú khai nhận về hành vi phạm tội của mình. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại Điểm i, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.
Do vậy, căn cứ vào tính chất của vụ án, nhân thân, tình tiết giảm nhẹ của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy: Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nhưng qua báo cáo của chính quyền địa phương thì bị cáo không có công ăn việc làm ổn định, chơi bời lêu lổng, không chịu sự quản lý của gia đình và địa phương; thường xuyên vắng mặt khỏi địa phương không rõ đi đâu, làm gì. Sau khi phạm tội, bị cáo bỏ đi gây khó khăn cho Cơ quan điều tra. Tại phiên tòa, bị hại đề nghị xử phạt bị cáo thật nghiêm, đúng theo quy định của pháp luật. Vì vậy, cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để giáo dục, cải tạo bị cáo thành công dân tốt.
[5] Đối với hành vi H dùng một chiếc điếu cày bằng tre dài 65cm, đường kính rộng 04cm, có một đầu bọc kim loại, chân điếu làm bằng nhựa đánh gây thương tích cho anh Vũ Văn H. Qúa trình điều tra, anh H từ chối giám định thương tích và không có đơn yêu cầu khởi tố vụ án hình sự nên không có căn cứ để xem xét xử lý trách nhiệm hình sự đối với H. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ đã chuyển hồ sơ đến Công an huyện Đ ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với H là phù hợp.
Đối với anh Trịnh Đình D bị Vũ Văn H đánh gây thương tích trong khi đang thi hành công vụ nhưng khi anh D đến gặp H, anh D chưa giới thiệu lý do công vụ của mình, chưa thi hành công vụ đối với H và việc H đánh gây thương tích cho anh D không nhằm cản trở việc thi hành công vụ của anh D. Do vậy, hành vi của H chưa đủ yếu tố cấu thành tội “Chống người thi hành công vụ” theo quy định tại Điều 330 Bộ luật hình sự.
[5] Về xử lý vật chứng: Đối với một điếu cày bằng nhựa dài 46cm, đường kính rộng 04cm, điếu cày bị vỡ một đầu, mất nỏ điếu, chân điếu làm bằng kim loại là công vụ phương tiện H dùng vào việc phạm tội, không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy là phù hợp.
[6] Về trách nhiệm dân sự: Qúa trình giải quyết vụ án, không ai yêu cầu bị cáo H bồi thường thiệt hại về sức khỏe nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điểm a, k Khoản 1 Điều 134, Điểm i, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51, Điều 38, Khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; Khoản 2 Điều 106, Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Về tội danh:
Tuyên bố: Bị cáo Vũ Văn H phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
2. Về hình phạt:
Xử phạt: Bị cáo Vũ Văn H 08 (tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 13/12/2023.
3. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 điếu cày bằng nhựa dài 46cm, đường kính rộng 04cm, điếu cày bị vỡ một đầu, mất nỏ điếu, chân điếu làm bằng kim loại hiện đang bảo quản tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ theo phiếu nhập kho số NK 25 ngày 17/01/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ, tỉnh T.
4. Về án phí: Bị cáo Vũ Văn H phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo bản án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án phần liên quan đến quyền, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật thi hành án dân sự thì người phải thi hành án có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tội cố ý gây thương tích số 10/2024/HS-ST
Số hiệu: | 10/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Yên Định - Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 30/01/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về