Bản án về tội cố ý gây thương tích số 10/2024/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 10/2024/HS-PT NGÀY 25/03/2024 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 25 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh S xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 06/2024/TLPT-HS ngày 26 tháng 01 năm 2024 đối với bị cáo Bế Trung T, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 18/2023/HS-ST ngày 21 tháng 12 năm 2023 của Toà án nhân dân huyện Đ, tỉnh S.

- Bị cáo có kháng cáo: Bế Trung T, sinh ngày 28 tháng 02 năm 1984 tại huyện Đ, tỉnh S. Nơi đăng ký thường trú và chỗ ở: Thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh S; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Bế Trung T (đã chết) và bà Vi Thị V (đã chết); vợ con: Chưa có; tiền án: Không có; tiền sự: Không có; nhân thân: Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 05761/QĐ- XPHC, ngày 06/7/2002 của Công an huyện Đ, tỉnh S xử phạt 1.000.000 đồng về hành vi Gây rối trật tự công cộng; hiện tại ngoại, có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Bế Trung T: Bà Hoàng Thị H, Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh S, có mặt.

- Bị hại có kháng cáo: Ông Lý T, sinh năm 1964; địa chỉ: Thôn C, xã Đ, huyện Đ, tỉnh S, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bế Trung H và Lý T đều có ruộng tại khu ruộng T, thôn C, xã Đ, huyện Đ, tỉnh S, trước đó hai gia đình đã xảy ra tranh chấp đất đai tại khu vực này. Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 30/3/2023, Bế Trung H cùng vợ là Nguyễn Thị L, Bế Trung T đến khu vực ruộng trên để phát cỏ và cấy lúa, khi đi Bế Trung H và Bế Trung T mỗi người mang theo một con dao quắm bằng kim loại có tra cán gỗ để phát cỏ. Tại khu ruộng, Bế Trung H và Bế Trung T dùng dao phát cỏ ở bờ ruộng còn Nguyễn Thị L cấy lúa ở dưới ruộng, khi đang phát cỏ thì Bế Trung H phát hiện một số cây ngô trồng ở gần bờ ruộng khu vực lối đi sang ruộng nhà Lý T bị đổ gẫy và có vết chân người dẫm. Đến khoảng 14 giờ cùng ngày, Lý T vác theo một chiếc cuốc dài khoảng 1,2m cùng con trai là Lý Đình T đi qua khu vực bờ ruộng của Bế Trung H để đi làm ruộng, Bế Trung H cho rằng Lý T là người đã dẫm cây ngô của mình trước đó nên đã chặn không cho Lý T đi qua dẫn đến to tiếng cãi chửi và đánh nhau, Bế Trung H cầm dao quắm có tra cán đang dùng để phát cỏ dài 1,26m còn Lý T cầm cuốc lao vào đánh nhau nhưng không ai bị thương tích, Nguyễn Thị L đang cấy lúa ở dưới ruộng thấy thế thì hô hoán lên. Bế Trung T thấy Bế Trung H bị đánh nên cầm theo con dao cắm có tra cán dài 1,27m đi đến can ngăn thì Lý T vung chiếc cuốc đánh về phía Bế Trung T, Bế Trung T dơ dao lên đỡ thì cả hai bị văng dao và cuốc bật ra khỏi tay. Lúc này Bế Trung H vứt con dao đang cầm trên tay xuống đất lao vào vật Lý T ngã ngửa dưới đất, Lý T bị vật xuống thì vùng vẫy tay, chân để thoát ra. Nguyễn Thị L thấy thế lao vào giữ tay và chân Lý T không cho Lý T đánh trúng Bế Trung H. Bế Trung Hoà đang ngồi trên bụng hướng về phía mặt Lý T rồi dùng tay phải đấm hai phát vào mặt Lý T gây thương tích. Lúc này Bế Trung T đang ở phía sau Bế Trung H, Bế Trung T nhặt con dao quắm của mình trước đó bị rơi rồi dùng tay phải cầm vào cán gỗ xoay mặt lưng dao đánh hai phát theo hướng từ trên xuống dưới làm phần chuôi dao bằng kim loại trúng cổ chân phải Lý T còn phần mũi dao cứa trúng cổ chân trái của Lý T làm Lý T bị gãy đầu dưới xương mác phải và bị thương 02 vết ở cẳng chân trái. Lý Đình T thấy Lý T bị đánh thì đi đến cầm con dao của Bế Trung H vứt trước đó giơ lên dọa để Bế Trung T, Bế Trung H, Nguyễn Thị L không đánh Lý T nhưng bị Nguyễn Thị L đuổi đi và nói “không phải việc của mày". Sau đó, Nguyễn Văn Nam và Cao Xuân Nhã đang ở trên nhà Nguyễn Văn Nam nhìn thấy sự việc và xuống can ngăn thì Bế Trung T, Bế Trung H, Nguyễn Thị L bỏ đi. Bế Trung T cầm theo con dao của mình và chiếc cuốc của Lý T rồi vứt chiếc cuốc xuống bờ ruộng gần đó để tránh việc Lý T đánh lại.

Tại Kết luận giám định pháp y về thương tích số 117/2023/PYTT ngày 17/5/2023 của Trung tâm pháp y tỉnh S kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể của ông Lý T là 08%, gồm các vết thương: Chấn động não, điều trị ổn định:

01%; 02 sẹo vết thương cẳng chân trái: 04%; Gãy đầu dưới xương mác phải:

03%.

Quá trình điều tra, xác minh cho thấy Bế Trung T có Bệnh án điều trị tại Trạm y tế thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh S (theo Bệnh án số 42/05 lập ngày 09/3/2005) được chẩn đoán mắc bệnh tâm thần phân liệt thể không biệt định, từ khi chữa bệnh về Bế Trung T không đến thăm khám và nhận thuốc uống theo quy định. Cơ quan điều tra đã tiến hành thu thập các tài liệu chứng cứ có liên quan và tiến hành trưng cầu giám định Pháp y tâm thần đối với Bế Trung T tại Viện Pháp y tâm thần Trung ương.

Tại Kết luận giám định pháp y tâm thần số 307/KLGD ngày 13/9/2023 Viện Pháp y tâm thần trung ương – Bộ Y tế kết luận: Tiền sử Bế Trung T có đợt rối loạn tâm thần đã điều trị khỏi. Trước, trong khi thực hiện hành vi đánh nhau và tại thời điểm giám định, Bế Trung T không có bệnh tâm thần, tại các thời điểm trên Bế Trung T có đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 18/2023/HS-ST ngày 21-12-2023 của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh S đã quyết định:

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 134; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51;

Điều 50; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Căn cứ vào các Điều 357, 468, 584, 585, 586, 587, 590 của Bộ luật Dân sự.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Bế Trung T phạm tội Cố ý gây thương tích.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Bế Trung T 09 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt đi thi hành án.

3. Về bồi thường dân sự: Buộc bị cáo Bế Trung T phải bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm cho ông Lý T số tiền 23.560.000đ (hai mươi ba triệu năm trăm sáu mươi nghìn đồng). Anh Bế Trung H phải bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm cho ông Lý T với số tiền là 2.356.000đ (hai triệu ba trăm năm mươi sáu nghìn đồng); chị Nguyễn Thị L phải bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm cho ông Lý T với số tiền là 1.010.000đ (một triệu không trăm mười nghìn đồng).

Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí, quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, trong thời hạn luật định bị cáo Bế Trung T có đơn kháng cáo xin hưởng án treo. Bị hại Lý T kháng cáo cấp sơ thẩm bỏ lọt tội phạm đối với Bế Trung H và Nguyễn Thị L, yêu cầu bị cáo Bế Trung T phải bồi thường 100.000.000 đồng.

Tại phiên tòa:

Bị cáo Bế Trung T bổ sung kháng cáo yêu cầu xin hưởng án treo và giảm mức bồi thường dân sự. Bị hại Lý T rút toàn bộ kháng cáo.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh S: Đơn kháng cáo của bị cáo trong hạn luật định là hợp lệ, Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, mức độ, hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, đã xem xét đầy đủ tình tiết giảm nhẹ; xử phạt bị cáo mức án 09 tháng tù, về mức bồi thường dân sự buộc bị cáo phải bồi thường cho bị hại số tiền 23.560.000 đồng là phù hợp. Tại tòa, bị hại Lý T xin rút toàn bộ kháng cáo, xét thấy việc rút kháng cáo là hoàn toàn tự nguyện, không bị lừa dối ép buộc do đó đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 348 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bị hại Lý T. Bị cáo Bế Trung T không cung cấp được các tài liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của mình, do đó đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo về phần hình phạt và phần bồi thường dân sự, giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm.

- Ý kiến của người bào chữa cho bị cáo Bế Trung T: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét đầy các tình tiết giảm nhẹ, nhân thân, nguyên nhân, mục đích, hoàn cảnh phạm tội, lỗi của bị cáo Bế Trung T trong vụ án để xem xét giảm hình phạt cho bị cáo, cho bị cáo có cơ hội được hưởng áo treo. Vụ án xảy ra không xuất phát từ lỗi của bị cáo, bị cáo không có mục đích tự gây hấn, gây thương tích cho ông Lý T ngay từ đầu, bị cáo chỉ có một phần lỗi là hưởng ứng hành vi của những người khác, bị cáo không phải là người cầm đầu, khởi xướng việc đánh nhau, bị hại cũng có lỗi một phần. Bị cáo có hoàn cảnh rất khó khăn, gia đình bị cáo được chính quyền địa phương công nhận là gia đình thuộc hộ cận nghèo, bản thân bị cáo có tiền sử mắc bệnh tâm thần phân liệt. Đối chiếu theo quy định tại Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015, Nghị Quyết số 01/2022/NQ-HĐTP ngày 15/4/2022 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và các Điều 584, 585, 590 của Bộ luật Dân sự 2015, Nghị quyết 02/2022/NQ-HĐTP ngày 06/9/2022 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo cho bị cáo được hưởng án treo, giảm khoản bù đáp tổn thất tinh thần từ 05 tháng lương cơ sở xuống còn 02 tháng lương cở sở.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Bế Trung T thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Bế Trung T về tội Cố ý gây thương tích theo điểm a khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, không oan.

[2] Bị hại Lý T rút toàn bộ kháng cáo, xét thấy việc rút kháng cáo là hoàn toàn tự nguyện, không bị lừa dối ép buộc. Hội đồng xét xử cần đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bị hại Lý T.

[3] Xét kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo Bế Trung T thấy rằng: Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét khách quan, toàn diện, đánh giá đúng nhân thân, tính chất, mức độ hành vi phạm tội và đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015. Mức hình phạt của Bản án sơ thẩm đã tuyên đối với bị cáo là phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội do bị cáo gây ra. Đối với kháng cáo xin giảm mức bồi thường dân sự, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét các khoản bồi thường theo quy định của Bộ luật Dân sự, đúng quy định của pháp luật. Tại cấp phúc thẩm, bị cáo Bế Trung T không cung cấp được các tài liệu, chứng cứ mới chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của bị cáo. Vì vậy, không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo xin hưởng án treo, xin giảm mức bồi thường dân sự của bị cáo Bế Trung T.

[4] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh S; ý kiến của người bào chữa cho bị cáo. Ý kiến nào phù hợp với nhận định nêu trên thì được chấp nhận; ý kiến nào không phù hợp với nhận định nêu trên không được chấp nhận.

[5] Về án phí phúc thẩm: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo Bế Trung T được miễn án phí hình sự phúc thẩm.

[6] Các quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 355 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015; Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của bị hại Lý T.

2. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015;

Không chấp nhận kháng cáo về việc xin hưởng án treo, giảm mức bồi thường dân sự đối với bị cáo Bế Trung T; giữ nguyên nội dung Bản án hình sự sơ thẩm số: 18/2023/HS-ST ngày 21-12-2023 của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh S về phần hình phạt, về trách nhiệm bồi thường dân sự cụ thể như sau:

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 134; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51;

Điều 50; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Căn cứ vào các Điều 357, 468, 584, 585, 586, 587, 590 của Bộ luật Dân sự.

Xử phạt bị cáo Bế Trung T 09 (chín) tháng tù về tội Cố ý gây thương tích.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt đi thi hành án.

Về trách nhiệm bồi thường dân sự: Bị cáo Bế Trung T phải bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm cho bị hại Lý T với tổng số tiền 23.560.000 đồng (hai mươi ba triệu năm trăm sáu mươi nghìn đồng).

3. Về án phí phúc thẩm: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Bế Trung T được miễn án phí hình sự phúc thẩm.

4. Các quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

128
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 10/2024/HS-PT

Số hiệu:10/2024/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:25/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về