TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 10/2023/HS-PT NGÀY 09/01/2023 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 09 tháng 01 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 434/2022/TLPT-HS ngày 17 tháng 5 năm 2022 đối với bị cáo Trần Huy L, Trần Huy T do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 463/2021/HSST ngày 22 tháng 12 năm 2021 của Tòa án nhân dân thành phố H.
* Bị cáo có kháng cáo:
1. Trần Huy L, sinh năm 1983; nơi ĐKNKTT và chỗ ở: Thôn L1, xã Đ, huyện C, thành phố H; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 12/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Trần Duy T1 và bà Ngô Thị T2; vợ là Đỗ Thị N, có 02 con, lớn sinh năm 2015, nhỏ sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: Không;
Nhân thân: Ngày 12/8/2015 bị Công an huyện C, thành phố H xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền 2.500.000 đồng về hành vi “Cố ý gây thương tích”. Hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn, cấm đi khỏi nơi cư trú (có mặt tại phiên tòa).
2. Trần Huy T, sinh năm 1983; nơi ĐKNKTT và chỗ ở: Thôn L1, xã Đ, huyện C, thành phố H; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 09/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Trần Huy T3 và bà Nguyễn Thị T4; vợ là Nguyễn Thị H1, có 02 con, lớn sinh năm 2004, nhỏ sinh năm 2005; tiền án, tiền sự: không; hiện đang áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú (có mặt tại phiên tòa).
* Người bào chữa cho các bị cáo: Ông Bùi Tiến S và ông Nguyễn Văn T5 - Luật sư Văn phòng luật sư Đ1 thuộc Đoàn luật sư thành phố H (đều có mặt tại phiên tòa).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 06 giờ 30 phút ngày 07/10/2020, ông Trần Huy T3 (sinh năm 1954; trú tại thôn L1, xã Đ, huyện C, H) đang thả trâu tại cánh đồng Giếng thuộc thôn L1, xã Đ, huyện C, H thì trâu của ông T3 đã làm rách lưới bẫy chim của Nguyễn Công T6 (sinh năm 1994; trú tại thôn C1, xã C2, huyện Q, H). Từ đó dẫn đến giữa ông Trần Huy T3 và Nguyễn Công T6 đã xảy ra mâu thuẫn, cãi nhau. Lúc này, Nguyễn Công T6 cầm con dao bầu trên tay và nói với ông Trần Huy T3: “Từ đầu vụ đến giờ, trâu của ông làm rách bao nhiêu lưới của tôi rồi, ông định như thế nào”. Ông Trần Huy T3 nói lại: “Mày ở thiên hạ đến, mày không đánh được thì mày dọn đồ về” thì Nguyễn Công T6 quát: “Bây giờ ông định thế nào?” Ông Trần Huy T3 trả lời: “Thế nào là thế nào”. Khi ông Trần Huy T3 vừa nói xong thì Nguyễn Công T6 dùng chân đạp một phát vào đùi ông Trần Huy T3 và khua dao bầu đang dọa chém ông Trần Huy T3. Thấy vậy, ông Trần Huy T3 nói: “Mày chém tao đi”. Nguyễn Công T6 nói: “Ông không giải quyết được thì gọi người ra giải quyết”. Nói xong, Nguyễn Công T6 bỏ đi về lều dựng của mình ở gần đó; còn ông Trần Huy T3 đi về nhà. Do bức xúc vì Nguyễn Công T6 chỉ bằng tuổi con cháu mà đánh mình nên ông Trần Huy T3 kể lại sự việc với con trai là Trần Huy T (sinh năm 1983) và cháu họ là Trần Huy L (sinh năm 1983; trú tại thôn L1, xã Đ, huyện C, H). Sau khi nghe sự việc, Trần Huy T và Trần Huy L bực tức nên đã rủ nhau lấy xe máy Wawe màu đỏ, biển kiểm soát 30L8-37xx (xe của Trần Huy T) đi ra cánh đồng Giếng để tìm đánh Nguyễn Công T6. Khi đi, Trần Huy T cầm theo 01 thanh kiếm tự tạo, còn Trần Huy L cầm theo 01 đoạn tuýp sắt một đầu vát nhọn. Trần Huy T điều khiển xe máy bằng tay phải, tay trái cầm kiếm chở Trần Huy L ngồi sau đi ra cánh đồng Giếng. Khi đến nơi, Trần Huy T và Trần Huy L thấy Nguyễn Công T6 đang cầm 01 con dao bầu (loại dao chọc tiết lợn, một đầu sắc nhọn, chuôi gỗ dài 12cm, lưỡi dao bằng kim loại dài 20cm) bằng tay phải khua về phía trước, tay trái Nguyễn Công T6 cầm vào tuýp sắt là cọc dựng lều. Thấy Trần Huy T và Trần Huy L đến, Nguyễn Công T6 nói: “Nay tao giết hết chúng mày”. Lúc này, Trần Huy L ngồi sau xe hỏi Trần Huy T: “Có phải thằng này không” thì Trần Huy T trả lời: “Phải” nên Trần Huy L xuống xe, hai tay cầm đoạn tuýp sắt có một đầu vát nhọn chạy đến chỗ Nguyễn Công T6 đứng và giơ tuýp sắt lên vụt 01 phát theo hướng từ trên xuống về phía Nguyễn Công T6. Nguyễn Công T6 giơ tay trái lên đỡ bị trúng vào mu bàn tay trái. Trần Huy L tiếp tục giơ tuýp sắt lên vụt 01 phát nữa nhưng Nguyễn Công T6 giơ tay trái lên đỡ và túm giữ được tuýp sắt tại vị trí gần đầu vát nhọn. Sau đó, Trần Huy L và Nguyễn Công T6 giằng co nhau, Trần Huy L giật mạnh đoạn tuýp sắt làm rách lòng bàn tay trái của Nguyễn Công T6. Ngay lúc này, Nguyễn Công T6 cầm dao bầu bằng tay phải xông đến đâm 01 nhát về phía vùng bụng Trần Huy L nhưng đâm trúng vào chiếc điện thoại di động của Trần Huy L đang dắt tại cạp quần phía trước bụng, làm cho mũi dao trượt gây xước nhẹ vùng sườn trái. Trần Huy L liền giơ tuýp sắt lên vụt 01 phát nữa theo hướng từ trên xuống thì Nguyễn Công T6 giơ tay trái lên đỡ và túm vào phần tiếp giáp với đầu vát nhọn của tuýp sắt bị tuýp sắt cứa vào cẳng tay trái Nguyễn Công T6 gây thương tích chảy máu. Nguyễn Công T6 giật mạnh đoạn tuýp khỏi tay Trần Huy L, làm Trần Huy L mất đà ngã ra. Lúc này, Trần Huy T cầm thanh kiếm tự tạo bằng tay phải chạy đến chỗ Nguyễn Công T6 và giơ kiếm chém 01 nhát vào người Nguyễn Công T6 nhưng Nguyễn Công T6 giơ tay phải (đang cầm dao) lên đỡ bị trúng vào khuỷu tay phải. Nguyễn Công T6 cầm dao chém lại 01 nhát trúng vào khuỷu tay trái của Trần Huy T. Sau khi chém Trần Huy T, Nguyễn Công T6 bị trượt chân ngã chúi về trước nên bị Trần Huy T cầm thanh kiếm bằng tay phải chém 01 nhát trúng vùng lưng của Nguyễn Công T6. Bị chém, Nguyễn Công T6 vùng dậy ôm gì lấy Trần Huy T và hai bên giằng co nhau. Nguyễn Công T6 cầm dao bằng tay phải đâm liên tiếp 02 nhát trúng vùng bụng của Trần Huy T làm Trần Huy T ngã ngửa về sau. Trần Huy L thấy Trần Huy T bị đâm ngã nên đã rút thanh tuýp dưới lưng Trần Huy T lên để đánh Nguyễn Công T6. Thấy vậy, Nguyễn Công T6 vứt dao bỏ chạy. Trần Huy L đuổi theo Nguyễn Công T6 được một đoạn thì nghe thấy Trần Huy T gọi: “L ơi”, nên quay lại nhìn thấy Trần Huy T bị đâm thủng bụng lòi ruột ra ngoài. Trần Huy L nhặt điện thoại của mình gọi người nhà đến và cùng đưa Trần Huy T đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa H2. Còn Nguyễn Công T6 bỏ chạy về nhà và đến Bệnh viện đa khoa huyện Q khám và khâu vết thương. Sau đó, Nguyễn Công T6 đến Công an xã Đ, huyện C đầu thú và khai nhận hành vi phạm tội.
Hậu quả: Trần Huy L và Trần Huy T bị Nguyễn Công T6 dùng dao bầu đâm vào bụng, sườn, bụng bị thương tích, được mọi người đưa đi cấp cứu và điều trị nên không ảnh hưởng đến tính mạng.
Sau khi xảy ra vụ án, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C và Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố H đã tiến hành khám nghiệm hiện trường, thực nghiệm điều tra, thu giữ vật chứng và trưng cầu giám định thương tích của Nguyễn Công T6, Trần Huy T, Trần Huy L. Kết quả như sau:
Tại biên bản khám nghiệm hiện trường vụ án hồi 13 giờ 30 phút ngày 07/10/2020, thể hiện:
“… - Hiện trường xảy ra sự việc tại đường nội đồng thuộc Cánh đồng thôn L1 (đồng giếng Nội Thổng), xã Đ, huyện C, H. Lấy vị trí xảy ra hiện trường xác định. Hướng Tây Bắc là đường nội đồng giáp với cánh đồng xã C2, huyện Q, H. Hướng Tây Nam giáp mương nước, cạnh mương nước là ruộng của ông Nguyễn Xuân T7 sinh năm 1975, trú tại thôn L1, xã Đ, huyện C. Hướng Đông Nam là đường nội đồng hướng đi ra đường bê tông nội đồng thôn L1. Hướng Đông Bắc giáp ruộng nhà bà Trần Thị Tuyết ở thôn L1, xã Đ, huyện C.
Tiến hành khám nghiệm hiện trường từ ngoài vào trong bằng mắt thường phát hiện.
Đường nội đồng thuộc cánh đồng thôn L1 là đường đất rộng 5m20, hai bên cỏ mọc. Bên trái đường nội đồng là ruộng lúa, lúa đã được thu hoạch còn gốc rạ, ruộng có nước. Bên phải đường (hướng từ đồng đi ra đường bê tông nội đồng) là mương nước để phục vụ tươi tiêu.
Vị trí số (1) ký hiệu trên sơ đồ hiện trường, cách đường bê tông nội đồng 395m , cách đường, cách lề phải đường đất rộng đồng hướng đi lên đường bê tông nội đồng 3m50 phát hiện vùng chất nâu màu đỏ (nghi máu) nằm rải rác bám dính trên cỏ diện (45x17)cm.
Vị trí số (2) ký hiệu trên sơ đồ hiện trường, cách đường bê tông nội đồng là 383m cách lề trái đường đất nội đồng (hướng đi lên đường bê tông nội đồng) là 1m25 phát hiện 01 đôi dép loại dép tổ ong màu trắng cũ đã qua sử dụng kích thước (22x10)cm.
Cách vị trí số 1 là 03m, có 01 lều tự chế khung kim loại, bên trên lợp bạt màu xanh bên ngoài cạnh lều có các dụng cụ phục vụ bẫy chim, cạnh phía sau lều có 01 xe mô tô BKS: 33N5-1643 đầu quay hướng Đông Bắc, đuôi quay hướng Đông Nam. Dọc đường nội đồng bên trái (hướng đi lên đường bê tông nội đồng) có cọc tre đan lưới (lưới dùng để bẫy chim) dài 90m, cao 3m”.
Tại bản kết luận giám định số 7193/C09-TT3 ngày 22/11/2020 của Viện Khoa học hình sự - Bộ Công an kết luận:
“…- Mẫu nghi máu ghi thu tại vị trí số 1 là máu người và là máu của Nguyễn Công T6.
- Trên con dao gửi giám định có bám dính máu của Nguyễn Công T6 và Trần Huy T, không phát hiện thấy máu của Trần Huy L…” Tại bản kết luận giám định pháp y thương tích số 9250/C09-TT1 ngày 29/01/2021 của Viện Khoa học hình sự - Bộ Công an về thương tích của Nguyễn Công T6 do Trần Huy L và Trần Huy T gây ra, như sau:
“…- Sẹo vùng lưng: 02%;
- Sẹo mỏm khuỷu tay phải: 02%;
- Sẹo không liên tục mặt sau 1/3 dưới cẳng tay trái: 02%;
- Sẹo lòng bàn tay trái: 02%;
- Sẹo ngón I bàn tay trái: 01%;
- Tổn thương móng ngón I tay trái sần sùi có vằn ngang: 01%;
- Sẹo mặt gan đốt 1 ngón II bàn tay trái: 01%;
- Mẻ mỏm khuỷu xương trụ phải (tương ứng với sẹo mỏm khuỷu phải): 01%;
- Gãy gãy đầu xa xương II bàn tay trái đang can xương, thẳng trục, không hạn chế chức năng bàn tay, ngón tay: 6% - Gãy đốt 2 ngón I tay trái, đang can xương, thẳng trục: 02% - Tổng tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của Nguyễn Công T6 tại thời điểm giám định là: 18%”.
Tại bản kết luận giám định pháp y thương tích số 15/TTPY ngày 07/01/2021 của Trung tâm pháp y - Sở Y tế H về thương tích của Trần Huy T do Nguyễn Công T6 gây ra, như sau:
“…- Các sẹo vết thương, vết mổ, vết dẫn lưu vùng bụng: 14%;
- Thủng đại tràng, tổn thương động mạch đại tràng, đã phẫu thuật cắt đại tràng phải làm hậu môn nhân tạo, hiện đã đóng hậu môn nhân tạo: 56%;
- Thủng ruột non, đã phẫu thuật khâu lỗ thúng: 26%;
- Tổn thương tĩnh mạch chủ bụng, đã phẫu thuật khâu kín tĩnh mạch chủ: 51%.
- Hiện chưa đánh giá được hết mức độ tổn thương, di chứng sau phẫu thuật. Đề nghị giám định bổ sung sau nếu có căn cứ. Nhiều khả năng các thương tích do vật sắc nhọn gây nên.
- Tỷ lệ tổn hại sức khỏe: 86% (tám mươi sáu phần trăm). Tính theo phương pháp cộng lùi.
Tại bản kết luận giám định pháp y thương tích số 8160/C09-TT1 ngày 307/11/2020 của Viện Khoa học hình sự - Bộ Công an về thương tích của Trần Huy L do Nguyễn Công T6 gây ra, như sau:
“… Căn cứ kết quả nghiên cứu hồ sơ, khám giám định, khám chuyên khoa và các xét nghiệm, xác định Trần Huy L bị vết thương phần mềm vùng mạn sườn trái đã điều trị. Hiện tại để lại sẹo kích thước nhỏ tại vùng mạn sườn trái không ảnh hưởng chức năng.
Đối chiếu Bảng 1- tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do thương tích ban hành kèm theo Thông tư số 22/2019/TT/BYT, ngày 28/08/2019 của Bộ Y tế, áp dụng Nguyên tắc 1 và Mục I.1 - Chương 8, xác định tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do sẹo tại vùng mạn sườn trái của Trần Huy L tại thời điểm giám định là 01% (một phần trăm)”.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 463/2021/HSST ngày 22 tháng 12 năm 2021, Tòa án nhân dân thành phố H đã quyết định:
Tuyên bố: Trần Huy L, Trần Huy T phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Trần Huy L 04 năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.
Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Trần Huy T 04 năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về tội danh và hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Công T6, trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 05/01/2022, các bị cáo Trần Huy L, Trần Huy T có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo.
Tại phiên tòa phúc thẩm, Các bị cáo Trần Huy L, Trần Huy T thay đổi nội dung kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử giảm hình phạt cho các bị cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại H phát biểu quan điểm giải quyết vụ án: Sau khi phân tích, đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ và nhân thân của bị cáo, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm và căn cứ kháng cáo của các bị cáo, kết luận: Tòa án cấp sơ thẩm xử các bị cáo là đúng người, đúng tội. Tòa án cấp sơ thẩm đã cân nhắc các tình tiết giảm nhẹ khi lượng hình đối với các bị cáo. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo L có thêm tình tiết giảm nhẹ mới là gia đình có công với cách mạng mà chưa được Tòa sơ thẩm xem xét; bị cáo T không có tình tiết giảm nhẹ mới. Đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo L từ 3-6 tháng tù; giữ nguyên hình phạt đối với bị cáo T.
Các luật sư bào chữa cho 2 bị cáo có quan điểm: Trong vụ án này, bị cáo T tổn hại 86% sức khỏe, bị cáo L tổn hại 1% sức khỏe. Cả 2 bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tích cực hợp tác với Cơ quan điều tra, chấp hành tốt pháp luật của nhà nước, hoàn cảnh gia đình khó khăn, bố mẹ già yếu, con nhỏ, mẹ bị cáo T mất khi bị cáo mới 5 tuổi. Gia đình bị cáo L có công với cách mạng. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giảm nhẹ hình phạt cho 2 bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ được thẩm tra công khai tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, ý kiến tranh luận của bị cáo. Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định vụ án như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng: Quá trình điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm vụ án, các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Hình sự về thẩm quyền, trình tự, thủ tục; không ai có ý kiến thắc mắc, khiếu nại gì. Sau khi xét xử sơ thẩm, trong thời hạn luật định, các bị cáo Trần Huy L, Trần Huy T có kháng cáo là hợp lệ, được chấp nhận về hình thức.
[2] Về nội dung: Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo Trần Huy L, Trần Huy T thừa nhận hành vi phạm tội đúng như bản án sơ thẩm đã tuyên. Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản thực nghiệm điều tra, giám định pháp y, vật chứng thu giữ cùng các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án có đủ cơ sở kết luận:
Ngày 07/10/2020, ông Trần Huy T3 khi chăn trâu tại cánh đồng Giếng thuộc thôn L1, xã Đ, huyện C, thành phố H thì trâu của ông Trần Huy T3 có làm rách lưới bẫy chim của Nguyễn Công T6 nên giữa Nguyễn Công T6 và ông Trần Huy T3 có xảy ra mâu thuẫn, Nguyễn Công T6 có hành vi đạp vào đùi và cầm dao dọa chém ông Nguyễn Huy Trường. Ông Trần Huy T3 về nhà kể lại sự việc với con trai là Trần Huy T và cháu họ là Trần Huy L biết, Nguyễn Huy T và Trần Huy L bức xúc nên đã mang theo kiếm tự tạo và tuýp sắt có 01 đầu vót nhọn đi tìm đánh Nguyễn Công T6, Khi gặp Nguyễn Công T6, Trần Huy L dùng hai tay cầm đoạn tuýp sắt chạy vụt 01 phát từ trên xuống về phía Nguyễn Công T6. Nguyễn Công T6 giơ tay trái lên đã bị trúng vào mu bàn tay trái, Trần Huy L tiếp tục giơ tuýp sắt lên vụt 01 phát nữa nhưng Nguyễn Công T6 giơ tay trái lên đỡ và túm, giữ được tuýp tại vị trí gần đầu vát nhọn. Hai bên giằng co nhau, Trần Huy L giật mạnh đoạn tuýp sắt làm rách lòng bàn tay trái của Nguyễn Công T6, Lúc này, Nguyễn Công T6 cầm dao bầu bằng tay phải đâm 01 nhát về phía bụng Trần Huy L nhưng đâm trúng vào chiếc điện thoại di động làm cho mũi dao trượt và đâm trúng sườn trái, Trần Huy L tiếp tục giơ tuýp lên vụt 01 phát nữa thì Nguyễn Công T6 giơ tay trái lên đỡ và túm vào phần tiếp giáp với đầu vát nhọn của tuýp bị tuýp cứa vào cẳng tay trái Nguyễn Công T6 gây thương tích chảy máu. Nguyễn Công T6 giật mạnh đoạn tuýp khỏi tay Trần Huy L, làm Trần Huy L mất đà ngã ra. Lúc này, Trần Huy T cầm thanh kiếm tự tạo bằng tay phải chạy đến chỗ Nguyễn Công T6 và giơ kiếm chém 01 phát vào người Nguyễn Công T6 nhưng Nguyễn Công T6 giơ tay phải (đang cầm dao) lên đỡ bị trúng vào khuỷu tay phải. Nguyễn Công T6 cầm dao chém lại 01 nhát trúng vào khuỷu tay trái của Trần Huy T. Nguyễn Công T6 bị trượt chân ngã chúi về trước nên bị Trần Huy T cầm thanh kiếm bằng tay phải chém 01 nhát trúng vào vùng lưng. Nguyễn Công T6 vùng dậy ôm ghì lấy Trần Huy T và hai bên giằng co nhau. Nguyễn Công T6 cầm dao bầu bằng tay phải đâm liên tiếp 02 nhát trúng vùng bụng của Trần Huy T làm Trần Huy T bị thủng bụng lòi ruột ra ngoài và ngã ngửa về phía sau. Trần Huy L thấy Trần Huy T bị đâm ngã nên đã rút thanh tuýp dưới lưng T lên để đánh Nguyễn Công T6. Thấy vậy, Nguyễn Công T6 vút dao bỏ chạy, Trần Huy L, Trần Huy T được người nhà đến đưa đi cấp cứu. Hậu quả, Nguyễn Công T6 bị Trần Huy T và Trần Huy L đánh gây tổn hại 18% sức khỏe. Trần Huy T bị Nguyễn Công T6 dùng dao đâm vào vùng bụng bị tổn hại sức khỏe 86%. Trần Huy L bị Nguyễn Công T6 dùng dao đâm vào vùng sườn trái, bị tổn hại 01% sức khỏe. Với hành vi phạm tội nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã kết án Trần Huy L, Trần Huy T về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Xét kháng cáo xin giảm hình phạt của các bị cáo Trần Huy T và Trần Huy L thấy rằng:
Đây là vụ án đồng phạm giản đơn, không có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người phạm tội; nguyên nhân của vụ án xuất phát từ việc ông Trần Huy T3 chăn trâu đã vô ý làm rách lưới bẫy chim của Nguyễn Công T6 nhưng Nguyễn Công T6 đã không xử sự đúng mực mà có hành vi đạp vào đùi và cầm dao dọa chém ông Trần Huy T3, hơn nữa Nguyễn Công T6 còn có lời nói thách thức ông Trần Huy T3 về tìm người đến giải quyết.
Do bức xúc, Nguyễn Công T6 đáng tuổi con cháu đánh nên ông Trần Huy T3 kể lại sự việc cho Trần Huy T (là con trai ông Trần Huy T3) và Trần Huy L (là cháu ông Trần Huy T3); thấy bố và cậu bị đánh vô cớ nên các bị cáo Trần Huy T và Trần Huy L có cầm hung khí đến gặp Nguyễn Công T6 nhằm mục đích dằn mặt nhưng khi gặp nhau, Nguyễn Công T6 có lời nói “hôm nay tao giết hết” và có hành vi tấn công liên tiếp các bị cáo nên giữa hai bên xảy ra xô xát, đánh, chém nhau, bản thân bị cáo Trần Huy T bị Nguyễn Công T6 cầm dao chém 01 nhát trúng vào khuỷu tay trái và đâm liên tiếp 02 nhát trúng vùng bụng của bị cáo Trần Huy T làm bị cáo bị thương với tỷ lệ tổn hại sức khỏe là 86%; bị cáo Trần Huy L cũng bị thương tích với tỷ lệ 01% sức khỏe. Như vậy, bản thân các bị cáo vừa là bị cáo vừa là bị hại trong vụ án.
Sau khi phạm tội, tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội; các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; sau khi phạm tội, bị cáo Trần Huy T ra đầu thú, nhân thân bị cáo Trần Huy T chưa có tiền án tiền sự; lần đầu phạm tội; gia đình bị cáo Trần Huy T có công với cách mạng, bị cáo có cụ nội được tặng thưởng huy chương kháng chiến hạng nhì; bản thân bị cáo Trần Huy T hiện đang bị thương tích 86%, sức khỏe yếu, đang phải uống thuốc điều trị; gia đình bị cáo Trần Huy T có hoàn cảnh khó khăn;
Bị cáo Trần Huy L có 01 tiền sự đã được xóa án tích; tại phiên tòa, bị cáo Trần Huy L cung cấp tài liệu mới gồm: Huân chương kháng chiến hạng nhất của ông Trần Huy H3 (là ông nội bị cáo); Tổ quốc ghi công liệt sỹ Trần Huy T8 (là bác của bị cáo); Giấy chứng nhận gia đình liệt sỹ; Huân chương kháng chiến hạng ba và Huân chương chiến công giải phóng hạng ba của ông Trần Huy T8 thể hiện gia đình bị cáo có công với cách mạng.Như vậy, những tình tiết bị cáo cung cấp tại phiên tòa phúc thẩm được coi tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới bị cáo được hưởng theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Trên cơ sở đánh giá mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội của các bị cáo, thái độ khai báo, chấp hành pháp luật, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; nhân thân của các bị cáo, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy có căn cứ để chấp nhận kháng cáo xin giảm hình phạt đối với các bị cáo, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật để bị cáo tích cực cải tạo tốt, sớm có cơ hội hòa nhập với gia đình, xã hội.
[4] Về án phí: Do kháng cáo được chấp nhận nên bị cáo Trần Huy T và Trần Huy L không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự; chấp nhận kháng cáo xin giảm hình phạt của bị cáo Trần Huy T và bị cáo Trần Huy L; sửa quyết định của Bản án hình sự sơ thẩm số 463/2021/HSST ngày 22 tháng 12 năm 2021 của Tòa án nhân dân thành phố H về phần hình phạt đối với các bị cáo Trần Huy T và Trần Huy L, cụ thể:
Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Trần Huy T, Trần Huy L phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
- Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt Trần Huy T 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.
- Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt Trần Huy L 03 (ba) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.
2. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Bị cáo Trần Huy T và bị cáo Trần Huy L không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội cố ý gây thương tích số 10/2023/HS-PT
Số hiệu: | 10/2023/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 09/01/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về