Bản án về tội cố ý gây thương tích số 10/2022/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TP, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 10/2022/HSST NGÀY 10/01/2022 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Trong ngày 10 tháng 01 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện TP xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 62/2021/TLST-HS, ngày 08 tháng 6 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 87/2021/QĐXXST-HS, ngày 15 tháng 7 năm 2021, Quyết định hoãn phiên tòa số 52/2021/QĐ-HPT, ngày 28 tháng 7 năm 2021, Quyết định hoãn phiên tòa số 56/2021/QĐ-HPT, ngày 28 tháng 8 năm 2021, Quyết định hoãn phiên tòa số 61/2021/QĐ-HPT, ngày 28 tháng 9 năm 2021, Quyết định hoãn phiên tòa số 63/2021/QĐ-HPT, ngày 28 tháng 10 năm 2021, Quyết định hoãn phiên tòa số 67/2021/QĐ-HPT, ngày 28 tháng 11 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 89/2021/QĐ-HPT, ngày 28 tháng 12 năm 2021, đối với các bị cáo:

1. Huỳnh Lập Th, sinh ngày 30 tháng 9 năm 1998 tại tỉnh Bình Thuận.

Nơi cư trú: Khu phố 5, thị trấn LH, huyện TP, tỉnh Bình Thuận; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 8/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Q tịch: Việt Nam; con ông Dương Thanh Ph (đã chết) và bà Huỳnh Thị Đ; Tiền án, tiền sự: không; Nhân thân: Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 116/2021/HSST, ngày 20 tháng 9 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện TP đã xử phạt bị cáo Huỳnh Lập Th 01 năm 03 tháng tù về tội “Tàng trữ, sử dụng trái phép vũ khí quân dụng”; bị tạm giam từ ngày 02 tháng 03 năm 2021 đến ngày 21 tháng 5 năm 2021; chấp hành hình phạt từ ngày 17 tháng 11 năm 2021 của Bản án hình sự sơ thẩm số 116/2021/HSST, ngày 20 tháng 9 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện TP; Có mặt

2. Nguyễn Quốc T, sinh năm 1996, tại tỉnh Bình Thuận.

Nơi cư trú: Khu phố 5, thị trấn LH, huyện TP, tỉnh Bình Thuận; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 11/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Q tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn E và bà Trần Thị C; Tiền án: 01 tiền án, tại Bản án hình sự sơ thẩm số 51/2018/HSST, ngày 28/6/2018 của Tòa án nhân dân huyện TP xử phạt Nguyễn Q T 18 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 19/6/2019; Tiền sự: không; Nhân thân: Ngày 05/10/2017 bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị trấn LH ra Quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn trong thời hạn 03 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Ngày 05.02.2018 bị Tòa án nhân dân huyện TP ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong thời hạn 24 tháng (được đình chỉ thi hành), tại Bản án hình sự sơ thẩm số 108/2021/HSST, ngày 14/9/2021 của Tòa án nhân dân huyện TP đã xử phạt Nguyễn Q T 06 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; đang chấp hành hình phạt tù của Bản án hình sự sơ thẩm số 108/2021/HSST, ngày 14/9/2021 của Tòa án nhân dân huyện TP; có mặt

3. Trần Ngọc Đ, sinh năm 1998, tại tỉnh Bình Thuận.

Nơi cư trú: Khu phố 01, thị trấn LH, huyện TP, tỉnh Bình Thuận; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Q tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn Th và bà Nguyễn Thị Thanh X; Tiền án, tiền sự: không; tại ngoại; có mặt

4. Dương Ngọc Ch, sinh năm 1996, tại tỉnh Bình Thuận.

Nơi cư trú: Khu phố 6, thị trấn LH, huyện TP, tỉnh Bình Thuận; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 6/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Q tịch: Việt Nam; con ông Dương Ngọc Th và bà Lê Thị C; Tiền án: không; Tiền sự: 02 tiền sự: Ngày 01/02/2018 bị Tòa án nhân dân huyện TP ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong thời hạn 24 tháng, chấp hành xong ngày 17/9/2019 và ngày 10/6/2020 bị bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị trấn LH ra Quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày 10/6/2020 đến 10/9/2020 về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; tại ngoại; có mặt

Người bị hại:

1. Ông Nghiêm Tiến D, sinh năm 1983 Nơi cư trú: phường L, quận Đ Đ, thành phố Hà Nội; vắng mặt

2. Ông Nguyễn Thanh T1, sinh năm 1991 Nơi cứ trú: tổ A phường T, thành phố CB, tỉnh CB; vắng mặt.

Người làm chứng: Bà Nguyễn Thị Phương N, ông Nguyễn Thanh Q, ông Nguyễn Thanh D; đều vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Vào khoảng 23 giờ ngày 22/12/2020, do có mâu thuẫn từ việc vay mượn tiền giữa Huỳnh Lập Th (gọi tắt là bị cáo Th) và Nghiêm Tiến D (gọi tắt là ông D) nên ông D gọi điện thoại đòi nợ thì giữa bị cáo Th và ông D liên tục điện thoại và nhắn tin cho nhau với nội dung chửi bới, thách đố đánh nhau, bị cáo Th hẹn ông D ra khu vực ngã 5 thuộc khu phố 5, thị trấn LH để đánh nhau, ông D đồng ý.

Đến khoản 00 giờ 30 phút, ngày 23/12/2020, ông D điều khiển xe mô tô chở theo Nguyễn Thanh T1 (gọi tắt là ông T1) ra khu vực ngã 5 để tìm gặp bị cáo Th nhưng bị cáo Th không ra nên ông D đi về lại quán nhậu của mình ở khu phố 05, thị trấn LH, huyện TP. Lúc này, bị cáo Th cùng với Nguyễn Q T (gọi tắt là bị cáo T), Trần Ngọc Đ (gọi tắt là bị cáo Đ) và Dương Ngọc Ch (gọi tắt là bị cáo Ch) đang nhậu tại nhà của bị cáo Th tại khu phố 5, thị trấn LH, huyện TP nên bị cáo Th rủ bị cáo T, bị cáo Ch và bị cáo Đ đi tìm ông D để đánh nhau, cả nhóm đồng ý. Bị cáo Th mang theo cây súng rulo và con dao dài khoản 30cm, bị cáo T mang cây dao tự tạo dài 78cm “kiếm nhật”, bị cáo Ch mang cây dũ 3 khúc và 01 con dao dài 26cm và bị cáo Đ không mang theo hung khí.

Đến khoảng 01 giờ 00 phút, ngày 23/12/2020 nhóm của bị cáo Th đi bộ từ nhà bị cáo Th ra ngã 5 để gặp ông D thì không có ông D. Bị cáo Th điện thoại cho Nguyễn Thanh Q là tài xế lái xe taxi để thuê taxi của Q đi đến quán nhậu của ông D tìm ông D, Q không biết bị cáo Th thuê xe taxi của Q để đi tìm ông D đánh nhau nên Q đồng ý. Đến 01 giờ 30 phút, ngày 23/12/2020, Q điều khiển xe taxi loại xe KIA, 4 chỗ, màu trắng, biển số 86A - 063.32 đến chở nhóm của bị cáo Th, bị cáo Th mở của xe ngồi ở ghế đầu bên phụ gần tài còn bị cáo Ch, bị cáo Đ và bị cáo T ngồi ở hàng ghế sau. Bị cáo Th chỉ dẫn Q điều khiển xe chạy theo đường Nguyễn Thị Minh Khai đến ngã tư giao đường Nguyễn Thị Minh Khai - Lê Duẫn thì rẽ trái đến trước quán nhậu của ông D tại đường Lê Duẩn thì bị cáo Th bảo Q cho xe ô tô chạy chậm lại, ông D ở trong quán nhìn ra thấy nhóm của bị cáo Th trên xe nên đứng dậy và chỉ tay về phía xe ô tô nói: “Tụi mày có ngon xuống đây”. Q điều khiển xe ô tô chạy tiếp khoảng 50m thì dừng lại, bị cáo Th, bị cáo T, bị cáo Đ và bị cáo Ch đi xuống xe. Bị cáo T, bị cáo Đ, bị cáo Ch đi trước, bị cáo Th đi sau hướng về quán của ông D, khi gần đến quán ông D thì bị cáo Đ lượm đá ven đường ném vào ông D và ông T1 đang ở trong quán, ông D cầm đá ném lại làm cho nhóm của bị cáo Th phải chạy lùi lại khoảng 20m và nhóm bị cáo Th và ông D đứng thách đố nhau. Sau đó, bị cáo Ch cầm cây dũ và 01 con dao xông vào để chém ông D nhưng bị trượt chân nên bị ông D dùng dao chém trúng tay phải của bị cáo Ch. Bị cáo Th đi đến dùng súng rulo chĩa thẳng vào ông D bóp cò liên tục từ 5 đến 6 lần nhưng súng không nổ nên đã xông vào dùng tay đánh và ôm ông D giằng co với ông D, bị cáo Đ chạy đến chỗ bị cáo Ch giật lấy con dao từ tay của bị cáo Ch xông đến đâm vào lưng của ông D một nhát gây thương tích. Cùng lúc này, bị cáo T cầm kiếm tự tạo xông vào chém 01 nhát trúng đầu gối trái của ông T1 làm cho ông T1 ngã khuỵu xuống đường, bị cáo T tiếp tục dùng kiếm chém liên tiếp nhiều nhát vào đầu của ông T1 gây ra thương tích ở vùng đầu của ông T1, đồng thời bị cáo Ch cầm cây dũ xông vào đánh liên tiếp lên người ông T1. Cùng lúc đó Nguyễn Thị Phương N là vợ của ông D đang ở trong quán hô hoán lên: “Công an, Công an” thì nhóm của bị cáo Th chạy lùi về xe ô tô, lên xe bảo Q cho xe chạy về nhà bị cáo Th. Ông T1 và ông D đã được mọi người đưa đến Bệnh viện cấp cứu và điều trị thương tích.

Sau khi sự việc xảy ra, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện TP đã tiến hành khám nghiệm hiện trường thu giữ tại hiện trường 01 chiếc dep (chân phải) chất liệu xốp màu xám dài 25cm, nơi rộng nhất 10cm, nơi hẹp nhất 07cm; 01 cán dao bằng gỗ hình hộp chữ nhật màu nâu đậm kích thước (15 x 2,5 x 1,5)cm; 01 nón lưỡi trai màu hồng có ghi dòng chữ CHANNEL; 01 nón lưỡi trai màu đỏ trắng ghi chữa BIA VIET; 01 dép lê màu trắng quai xám đen (chân trái) dài 27cm, nơi rộng nhất 10cm, nơi hẹp nhất 08cm; 01 khẩu súng màu đen đã trôi một phần sơn, hai bên báng súng bao bằng nhựa màu nâu ký hiệu “WG” WinGun PATENT, số hiệu 19TH6565 và 06 viên đạn có đầu đạn màu xám vỏ đạn màu vàng, sau đuôi vỏ đạn có ký hiệu chử E, các viên đạn dài 02cm đường kính đáy 06mm; 01 nón lưỡi trai màu đen có dòng chữ ADIDAS; 01 con dao thailan cán bằng nhựa màu xanh nõn chuối dài 10cm, lưỡi bằng kim loại dài 10cm, đầu nhọn, mặt lưỡi rộng 1,5cm; 01 thanh kim loại đầu nhọn dài 20cm, đường kính 01mm, một đầu thanh kim loại quấn vải màu trắng, mặt ngoài phần vải quấn có dính chất màu nâu. Ngày 25/12/2021, bị cáo Ch tự nguyện giao nộp cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện TP 01 cây gậy ba khúc bằng kim loại dài 60cm, phần cán bọc nhựa màu đen dài 24cm, 01 cây dao dài 26cm, lưỡi bằng kim loại dài 14cm, cán bằng gỗ dài 12cm; bị cáo T tự nguyện giao nộp 01 cây kiếm dài 78cm, cán bằng nhựa dài 26cm, lưỡi bằng kim loại dài 46cm được bọc trong vỏ nhựa màu đen. Ngày 27/12/2020, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện TP tạm giữ 01 xe ô tô hiệu KIA màu trắng, biển số 86A-063.32 của Nguyễn Thanh Q. Ngày 12/01/2021, ông D tự nguyện giao nộp cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện TP 01 cây dao dài 33cm, cán bằng gỗ dài 14cm, lưỡi bằng kim loại dài 19cm, nơi rộng nhất của mặt lưỡi 5cm.

Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 72/2021/TgT ngày 19/01/2021 của Trung tâm giám định pháp y tỉnh Bình Thuận kết luận, tỷ lệ thương tích của Nguyễn Thanh T1:

- Vết thương phần mềm vùng đỉnh phải đã được điều trị hiện để lại sẹo lành, kích thước: 14 x 0,3cm. Tỷ lệ tổn thương cơ thể là: 3%.

- Vết thương phần mềm vùng thái dương đỉnh phải hình nan hoa đã được điều trị hiện để lại sẹo lành, kích thước: 21 x 0,5cm. Tỷ lệ tổn thương cơ thể là: 3%.

- Vết thương, chấn thương gối trái, gãy hở lồi cầu trong xương đùi trái, xương bánh chè trái đã được phẫu thuật điều trị hiện hạn chế cử động co, duỗi cẳng chân trái, để lại sẹo vết thương trùng với sẹo vết mổ, kích thước: 12 x 0,1cm. Tỷ lệ tổn thương cơ thể là: 15% + 5% + 2%.

- Vết thương phần mềm mặt mu bàn tay trái đã được điều trị hiện để lại sẹo lành, kích thước: 4 x 0,2cm. Tỷ lệ tổn thương cơ thể là: 2%.

- Tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là: 27% (Hai mươi bảy phần trăm).

- Các vết thương, chấn thương do vật sắc gây ra.

- Vết thương vùng đỉnh phải, thái dương đỉnh phải có chiều hướng tác động từ phải sang trái; Vết thương, chấn thương gối trái, bàn tay trái có chiều hướng tác động theo tư thế cơ năng của cơ thể với vật gây thương.

Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 73/2021/TgT ngày 19/01/2021 của Trung tâm giám định pháp y tỉnh Bình Thuận kết luận, tỷ lệ thương tích của Nghiêm Tiến D:

- Vết thương phần mềm vùng lưng đã được điều trị hiện để lại sẹo lành, kích thước:

2 x 0,2cm. Tỷ lệ tổn thương cơ thể là: 1%.

- Tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là: 1% (một phần trăm).

- Vết thương do vật sắc gây ra, vết thương có chiều hướng tác động từ sau ra trước.

Tại bản cáo trạng số: 84/CT-VKS-TP, ngày 08 tháng 6 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện TP đã truy tố bị cáo Huỳnh Lập Th, Nguyễn Q T, Trần Ngọc Đ và Dương Ngọc Ch về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự

Kiểm sát viên đề nghị: Áp dụng vào điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58; Điều 38; khoản 1 Điều 55; khoản 1 Điều 56 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Huỳnh Lập Th từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”; tổng hợp với hình phạt 01 năm 03 tháng tù của Bản án hình sự sơ thẩm số 116/2021/HSST, ngày 20 tháng 9 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện TP, bị cáo Huỳnh Lập Th phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 03 năm 09 tháng đến 04 năm 03 tháng tù.

Áp dụng vào điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 58; Điều 38; khoản 1 Điều 55; khoản 1 Điều 56 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Q T từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”; tổng hợp với hình phạt 06 năm tù của Bản án hình sự sơ thẩm số 108/2021/HSST, ngày 14 tháng 9 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện TP, bị cáo Nguyễn Q T phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 08 năm 06 tháng đến 09 năm tù.

Áp dụng vào điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Ngọc Đ từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” Áp dụng vào điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Dương Ngọc Ch từ 02 (hai) năm tù; thời hạn tù tính từ ngày chấp hành án Căn cứ vào Điều 30 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tách yêu cầu bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm của ông Nghiêm Tiến D và ông Nguyễn Thanh T1 để giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 46; điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy 01 chiếc dép (chân phải) chất liệu xốp màu xám dài 25cm, nơi rộng nhất 10cm, nơi hẹp nhất 07cm; 01 cán dao bằng gỗ hình hộp chữ nhật màu nâu đậm kích thước (15 x 2,5 x 1,5)cm; 01 nón lưỡi trai màu hồng có ghi dòng chữ CHANNEL; 01 nón lưỡi trai màu đỏ trắng ghi chữa BIA VIET; 01 dép lê màu trắng quai xám đen (chân trái) dài 27cm, nơi rộng nhất 10cm, nơi hẹp nhất 08cm; 01 nón lưỡi trai màu đen có dòng chữ ADIDAS; 01 con dao thailan cán bằng nhựa màu xanh nõn chuối dài 10cm, lưỡi bằng kim loại dài 10cm, đầu nhọn, mặt lưỡi rộng 1,5cm; 01 thanh kim loại đầu nhọn dài 20cm, đường kính 01mm, một đầu thanh kim loại quấn vải màu trắng, mặt ngoài phần vải quấn có dính chất màu nâu; 01 cây gậy ba khúc bằng kim loại dài 60cm, phần cán bọc nhựa màu đen dài 24cm; 01 cây dao dài 26cm, lưỡi bằng kim loại dài 14cm, cán bằng gỗ dài 12cm; 01 cây kiếm dài 78cm, cán bằng nhựa dài 26cm, lưỡi bằng kim loại dài 46cm được bọc trong vỏ nhựa màu đen; 01 cây dao dài 33cm, cán bằng gỗ dài 14cm, lưỡi bằng kim loại dài 19cm, nơi rộng nhất của mặt lưỡi 5cm Các bị cáo Th, T, Đ và Ch thừa nhận đã thực hiện hành vi như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung của vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện TP, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện TP, Kiểm sát viên; trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, đúng trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng. Vì vậy, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2]. Về hành vi của các bị cáo: Vào khoảng 23 giờ ngày 22/12/2020, do có mâu thuẫn từ việc vay mượn tiền giữa bị cáo Th và ông D nên ông D gọi điện thoại đòi nợ thì giữa bị cáo Th và ông D liên tục điện thoại và nhắn tin cho nhau với nội dung chửi bới, thách đố đánh nhau, bị cáo Th hẹn ông D ra khu vực ngã 5 thuộc khu phố 5, thị trấn LH để đánh nhau, ông D đồng ý. Đến khoảng 00 giờ 30 ngày 23/12/2020, ông D điều khiển xe mô tô chở theo ông T1 ra khu vực ngã 5 để tìm gặp bị cáo Th nhưng bị cáo Th không ra nên ông D đi về lại quán nhậu của mình ở khu phố 05, thị trấn LH, huyện TP. Lúc này, bị cáo Th cùng với bị cáo T, bị cáo Đ và bị cáo Ch đang nhậu tại nhà của bị cáo Th nên bị cáo Th rủ bị cáo T, bị cáo Ch và bị cáo Đ đi tìm ông D để đánh nhau, cả nhóm đồng ý. Bị cáo Th mang theo cây súng rulo và con dao dài khoản 30cm, bị cáo T mang cây dao tự tạo dài 78cm “kiếm nhật”, bị cáo Ch mang cây dũ 3 khúc và 01 con dao dài 26cm, riêng bị cáo Đ không mang theo hung khí. Đến khoảng 01 giờ 00 ngày 23/12/2020, các bị cáo đi bộ từ nhà bị cáo Th ra ngã 5 để gặp ông D thì không có ông D. Bị cáo Th điện thoại cho Nguyễn Thanh Q là tài xế lái xe taxi để thuê taxi của Q đi đến quán nhậu của ông D tìm ông D, Q không biết Th thuê xe taxi của Q để đi tìm ông D đánh nhau nên Q đồng ý. Đến 01 giờ 30 phút, ngày 23/12/2020, Q điều khiển xe taxi đến trước quán nhậu của ông D tại đường Lê Duẩn thì bị cáo Th bảo Q cho xe ô tô chạy chậm lại, ông D ở trong quán nhìn ra thấy nhóm của bị cáo Th trên xe nên đứng dậy và chỉ tay về phía xe ô tô nói: “Tụi mày có ngon xuống đây”. Q điều khiển xe ô tô chạy tiếp khoảng 50m thì dừng lại, các bị cáo Th, T, Đ và Ch đi xuống xe. Các bị cáo T, Đ, Ch đi trước, bị cáo Th đi sau hướng về quán của ông D, khi gần đến quán ông D thì bị cáo Đ lượm đá ven đường ném vào ông D và ông T1 đang ở trong quán, ông D cầm đá ném lại làm cho nhóm của bị cáo Th phải chạy lùi lại khoảng 20m và nhóm bị cáo Th và ông D đứng thách đố nhau. Sau đó, bị cáo Ch cầm cây dũ và 01 con dao xông vào để chém ông D nhưng bị trượt chân nên bị ông D dùng dao chém trúng tay phải của bị cáo Ch. Bị cáo Th đi đến dùng súng rulo chĩa thẳng vào ông D bóp cò liên tục từ 5 đến 6 lần nhưng súng không nổ nên đã xông vào dùng tay đánh và ôm ông D giằng co với ông D, bị cáo Đ chạy đến chỗ bị cáo Ch giật lấy con dao từ tay của bị cáo Ch xông đến đâm vào lưng của ông D một nhát gây thương tích. Cùng lúc này, bị cáo T cầm kiếm tự tạo xông vào chém 01 nhát trúng đầu gối trái của ông T1 làm cho ông T1 ngã khuỵu xuống đường, bị cáo T tiếp tục dùng kiếm chém liên tiếp nhiều nhát vào đầu của ông T1 gây ra thương tích ở vùng đầu của ông T1, đồng thời bị cáo Ch cầm cây dũ xông vào đánh liên tiếp lên người ông T1. Cùng lúc đó Nguyễn Thị Phương N đang ở trong quán hô hoán lên “Công an, Công an” thì nhóm của bị cáo Th chạy lùi về xe ô tô, lên xe bảo Q cho xe chạy về nhà Th. Ông T1 và ông D đã được mọi người đưa đến Bệnh viện cấp cứu và điều trị thương tích.

Các bị cáo gây thương tích cho ông T1 27% và cho ông D 1% lẻ ra chỉ phạm vào tội “Cố ý gây thương tích” theo khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự, nhưng các bị cáo gây thương tích cho ông T1 và ông D chỉ vì mâu thuẫn nhỏ nhặt trong cuộc sống và sử dụng dao tự tạo để gây thương tích là tình tiết định khung hình phạt “dùng hung khí nguy hiểm” theo điểm a khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự và tình tiết định khung hình phạt “có tính chất côn đồ” theo điểm i khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự nên đã phạm vào tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự như bản cáo trạng số: 84/CT-VKS-TP, ngày 08 tháng 6 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện TP và lời luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa.

Đối với hành vi sử dụng súng rulo của bị cáo Th, đã bị xét xử bằng Bản án hình sự sơ thẩm số 116/2021/HSST, ngày 20/9/2021 của Tòa án nhân dân huyện TP nên không xem xét thêm.

[3]. Về vai trò đồng phạm của từng bị cáo: Các bị cáo cùng thống nhất ý chí thực hiện hành vi phạm tội nhưng không có sự phân công, câu kết chặt chẽ nên chỉ là đồng phạm giản đơn và đều là người thực hành. Trong đó, bị cáo Th là người có vai trò chính, rủ rê các bị cáo khác đi đánh nhau bị cáo T là người trực tiếp gây thương tích cho T1; tiếp đến là Đ và Ch có vai trò như nhau.

[4]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo Th, Đ và Ch không có tình tiết tăng nặng; Bị cáo T nhân thân có 01 tiền án, lần phạm tội này thuộc trường hợp “Tái phám” là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “thành khẩn khai báo” theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; Sau khi phạm tội các bị cáo đã đến Công an huyện TP “đầu thú” là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự khác quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự; Bị cáo Th được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “bồi thường thiệt hại” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5]. Về tính chất, mức độ hành vi của các bị cáo: Hành vi của các bị cáo xâm hại sức khỏe của công dân, hành vi có tính chất côn đồ, nhân thân không tốt nên phải xử lý các bị cáo bằng hình phạt tù, cách ly các bị cáo Phú ra khỏi xã hội một thời gian nhằm giáo dục các bị cáo trở thành người có ích cho xã hội, đồng thời qua đó nhằm giáo dục và phòng ngừa chung.

[6]. Về tổng hợp hình phạt của nhiều bản án: Bị cáo Huỳnh Lập Th đang chấp hành hình phạt 01 năm 03 tháng tù của Bản án hình sự sơ thẩm số 116/2021/HSST, ngày 20/9/2021 của Tòa án nhân dân huyện TP nên tổng hợp hình phạt của hai bản án và buộc bị cáo Th chấp hành hình phạt chung Đối với bị cáo Nguyễn Q T đang chấp hành hình phạt 06 năm tù của Bản án hình sự sơ thẩm số 108/2021/HSST, ngày 14/9/2021 của Tòa án nhân dân huyện TP nên tổng hợp hình phạt của hai bản án và buộc bị cáo T chấp hành hình phạt chung [7]. Về phần tang vật của vụ án: 01 xe ô tô hiệu KIA màu trắng, biển số 86A- 063.32 thu giữ của Nguyễn Thanh Q. Do Q không biết nhóm bị cáo Th thuê xe ô tô của để đi đánh, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện TP đã trả lại xe ô tô biển số 86A- 063.32 cho Nguyễn Thanh Q là đúng quy định của pháp luật nên không xem xét thêm.

01 chiếc dép (chân phải) chất liệu xốp màu xám dài 25cm, nơi rộng nhất 10cm, nơi hẹp nhất 07cm; 01 cán dao bằng gỗ hình hộp chữ nhật màu nâu đậm kích thước (15 x 2,5 x 1,5)cm; 01 nón lưỡi trai màu hồng có ghi dòng chữ CHANNEL; 01 nón lưỡi trai màu đỏ trắng ghi chữa BIA VIET; 01 dép lê màu trắng quai xám đen (chân trái) dài 27cm, nơi rộng nhất 10cm, nơi hẹp nhất 08cm; 01 nón lưỡi trai màu đen có dòng chữ ADIDAS; 01 con dao thailan cán bằng nhựa màu xanh nõn chuối dài 10cm, lưỡi bằng kim loại dài 10cm, đầu nhọn, mặt lưỡi rộng 1,5cm; 01 thanh kim loại đầu nhọn dài 20cm, đường kính 01mm, một đầu thanh kim loại quấn vải màu trắng, mặt ngoài phần vải quấn có dính chất màu nâu; 01 cây gậy ba khúc bằng kim loại dài 60cm, phần cán bọc nhựa màu đen dài 24cm; 01 cây dao dài 26cm, lưỡi bằng kim loại dài 14cm, cán bằng gỗ dài 12cm; 01 cây kiếm dài 78cm, cán bằng nhựa dài 26cm, lưỡi bằng kim loại dài 46cm được bọc trong vỏ nhựa màu đen; 01 cây dao dài 33cm, cán bằng gỗ dài 14cm, lưỡi bằng kim loại dài 19cm, nơi rộng nhất của mặt lưỡi 5cm. Trong đó, dao, thanh sắt, gậy ba khúc, kiếm là công cụ dùng vào việc phạm tội; nón, dép, cán dao là vật chứng không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy [8]. Về phần dân sự: Người bị hại Nguyễn Thanh T1 yêu cầu bồi thường 183.398.717 đồng, trong có hóa đơn chứng từ là 17.314.497 đồng, không có hóa đơn chứng từ là 166.084.220 đồng; người bị hại Nghiêm Tiến D yêu cầu các bị can bồi thường 41.630.231 đồng, trong có hóa đơn chứng từ là 1.470.231 đồng, không có hóa đơn chứng từ là 40.160.000 đồng. Bị cáo Huỳnh Lập Th đã bồi thường cho Nguyễn Thanh T1 và Nghiêm Tiến D 40.000.000 đồng.

Người bị hại Nguyễn Thanh T1 và Nghiêm Tiến D vắng mặt tại phiên tòa, để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên nên tách yêu cầu bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm của ông Nghiêm Tiến D và ông Nguyễn Thanh T1 để giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự [9]. Về án phí: Các bị cáo Huỳnh Lập Th, Nguyễn Q T, Trần Ngọc Đ và Dương Ngọc Ch mỗi người phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Huỳnh Lập Th, Nguyễn Quốc T, Trần Ngọc Đ và Dương Ngọc Ch phạm tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự Căn cứ vào điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58; Điều 38; khoản 1 Điều 55; khoản 1 Điều 56 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Huỳnh Lập Th 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù; tổng hợp với hình phạt 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù của Bản án hình sự sơ thẩm số 116/2021/HSST, ngày 20 tháng 9 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện TP, bị cáo Huỳnh Lập Th phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 03 (ba) năm 09 (chín) tháng tù; thời hạn tù tính từ ngày 17 tháng 11 năm 2021, được trừ thời hạn bị tạm giam trước đó từ 02 tháng 3 năm 2021 đến 21 tháng 5 năm 2021.

Căn cứ vào điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 58; Điều 38; khoản 1 Điều 55; khoản 1 Điều 56 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Quốc T 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù; tổng hợp với hình phạt 06 năm tù của Bản án hình sự sơ thẩm số 108/2021/HSST, ngày 14 tháng 9 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện TP, bị cáo Nguyễn Q T phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 08 (tám) năm 06 (sáu) tháng tù; thời hạn tù tính từ ngày 27 tháng 4 năm 2021.

Căn cứ vào điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Trần Ngọc Đ 02 (hai) năm tù; thời hạn tù tính từ ngày chấp hành án Căn cứ vào điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Dương Ngọc Ch 02 (hai) năm tù; thời hạn tù tính từ ngày chấp hành án Căn cứ vào Điều 30 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tách yêu cầu bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm của ông Nghiêm Tiến D và ông Nguyễn Thanh T1 để giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 46; điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy 01 chiếc dép (chân phải) chất liệu xốp màu xám dài 25cm, nơi rộng nhất 10cm, nơi hẹp nhất 07cm; 01 cán dao bằng gỗ hình hộp chữ nhật màu nâu đậm kích thước (15 x 2,5 x 1,5)cm; 01 nón lưỡi trai màu hồng có ghi dòng chữ CHANNEL; 01 nón lưỡi trai màu đỏ trắng ghi chữa BIA VIET; 01 dép lê màu trắng quai xám đen (chân trái) dài 27cm, nơi rộng nhất 10cm, nơi hẹp nhất 08cm; 01 nón lưỡi trai màu đen có dòng chữ ADIDAS; 01 con dao thailan cán bằng nhựa màu xanh nõn chuối dài 10cm, lưỡi bằng kim loại dài 10cm, đầu nhọn, mặt lưỡi rộng 1,5cm; 01 thanh kim loại đầu nhọn dài 20cm, đường kính 01mm, một đầu thanh kim loại quấn vải màu trắng, mặt ngoài phần vải quấn có dính chất màu nâu; 01 cây gậy ba khúc bằng kim loại dài 60cm, phần cán bọc nhựa màu đen dài 24cm; 01 cây dao dài 26cm, lưỡi bằng kim loại dài 14cm, cán bằng gỗ dài 12cm; 01 cây kiếm dài 78cm, cán bằng nhựa dài 26cm, lưỡi bằng kim loại dài 46cm được bọc trong vỏ nhựa màu đen; 01 cây dao dài 33cm, cán bằng gỗ dài 14cm, lưỡi bằng kim loại dài 19cm, nơi rộng nhất của mặt lưỡi 5cm (tang vật theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 14 tháng 7 năm 2021 giữa Chi cục thi hành án dân sự huyện TP với Công an huyện TP)

Căn cứ vào khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Q hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Các bị cáo Huỳnh Lập Th, Nguyễn Q T, Trần Ngọc Đ và Dương Ngọc Ch mỗi người phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm

Căn cứ vào Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự. Các bị cáo Huỳnh Lập Th, Nguyễn Quốc T, Trần Ngọc Đ và Dương Ngọc Ch đều có mặt, có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (ngày 10/01/2022). Người bị hại Nghiêm Tiến D và Nguyễn Thanh T1 vắng mặt, có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc công khai bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

318
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 10/2022/HSST

Số hiệu:10/2022/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuy Phong - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về