Bản án về tội cố ý gây thương tích số 09/2021/HSST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN M’ĐRẮK, TỈNH ĐẮKLẮK

BẢN ÁN 09/2021/HSST NGÀY 02/06/2021 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 02 tháng 6 năm 2021 tại hội trường Tòa án nhân dân huyện M’Đrắk xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hình sự thụ lý số 06/2021/HSST ngày 02 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số10/2021/QĐXXST-HS ngày 21/5/2021 đối với bị cáo:

Hoàng Anh Ng (tên gọi khác: B sinh ngày 23/07/2001 tại huyện M, tỉnh Đắk Lắk; Nơi cư trú: Thôn 03, xã K, huyện M, tỉnh Đắk Lắk; Trình độ học vấn: 6/12; Nghề nghiệp: Thợ cơ khí; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Không xác định được bố; con bà Hoàng Thị L (đã chết); Tiền án: Tại bản án số 19/2020/HSST ngày 30/7/2020 bị Tòa án nhân dân huyện M’Drắk xử phạt 03 năm tù nhưng cho hưởng án treo về tội cố ý gây thương tích. Ngày 11/01/2021 Tòa án nhân dân huyện M’Drắk quyết định giải quyết đề nghị buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo, bị bắt thi hành án ngày 22/02/2021; Tiền sự: Không. Bị cáo hiện đang chấp hành án tại Trại giam Đắc Tân, có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: anh Lê Văn D sinh ngày 15/7/1991. Nơi cư trú: Thôn 6, xã E, huyện M, tỉnh ĐăkLăk. Anh D có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

+ Anh Đậu Quang Đ sinh ngày 29/3/1991. Nơi cư trú: Thôn 4, xã E, huyện M, tỉnh Đăk Lăk. Vắng mặt.

+ Anh Đinh Công Tr sinh ngày 25/02/1992. Nơi cư trú: Tổ 7, thôn X, xã V, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa. Vắng mặt.

+ Chị Nguyễn Ngọc Thiên Tr1 sinh ngày 14/8/1993. Nơi cư trú: Tổ dân phố 8, thị trấn M, huyện M, tỉnh ĐăkLăk. Vắng mặt.

- Người làm chứng:

+ Anh Lê Xuân B sinh ngày 17/6/1996. Nơi cư trú: Tổ dân phố 3, thị trấn M, huyện M, tỉnh Đăk Lăk. Vắng mặt.

+ Ông Phan Nhật Tr2 sinh ngày 10/10/1977. Nơi cư trú: Buôn M, xã K, huyện M, tỉnh ĐăkLăk. Vắng mặt.

+ Bà Ngũ Thị V sinh ngày 16/3/1970. Nơi cư trú: Thôn 4, xã E, huyện M, tỉnh Đăk Lăk. Vắng mặt.

+ Anh Đậu Khánh D sinh ngày 21/10/1992. Nơi cư trú: Thôn 4, xã E, huyện M, tỉnh Đăk Lăk. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 06/9/2020, khi anh Lê Văn D điều khiển xe moto chở anh Đinh Công Tr từ thôn 4, xã Krông Jing ra thị trấn M’Drăk, thì gặp anh Lê Xuân B điều khiển xe moto của anh B và anh Đậu Quang Đ điều khiển xe mô tô chở Hoàng Anh Ng đang lưu thông hướng ngược lại thì xảy ra mâu thuẫn. Anh B quay xe lại đuổi theo xe của anh D, anh Đ cũng quay xe lại theo anh B. Đi được khoảng 300m, anh D dừng xe đi vệ sinh thì anh B đi tới. Do anh Tr quen biết với anh B nên đứng nói chuyện. Khi anh Đ và Ng vừa xuống xe, anh Tr dùng tay đánh anh Đ được anh B can ra, anh D rút dây nịt đánh anh Đ nên anh Đ lùi lại. Anh Tr nghĩ anh Đ đến mở cốp xe lấy hung khí nên chạy đến đẩy yên xe xuống và đánh anh Đ. Ng thấy anh D lao vào đánh anh Đ nên đến xô anh Đ ra thì bị anh D dùng dây nịt đánh một phát vào lưng, Ng quay người lại đối diện anh D dùng dao đang cầm sẵn ở tay trái khua về phía D thì trúng vào hông lưng bên phải của anh D, do dao bị mắc lại người anh D, Ng không rút ra được nên bỏ chạy theo anh Đ. Sau khi anh Đ bỏ chạy anh Tr lấy một đoạn sắt ở tiệm cửa sắt gần đó đập vào xe máy của anh Đ.

*Vật chứng tạm giữ: 01 xe mô tô BKS 47G1-112.05; 01 con dao (loại dao gấp) bằng kim loại màu trắng bạc, mũi nhọn, phần sống lưỡi dao có gờ răng cưa và có khuyết hình móc câu; 01 dây nịt (thắt lưng) bằng da, màu nâu.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 1088/TgT- TTPY ngày 17/10/2020 của Trung tâm pháp y tỉnh Đắk Lắk kết luận: Tỷ lệ thương tích của Lê Văn Dũng là 02 %, vật tác động: Sắc nhọn.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 441/KL- HĐĐG ngày 26/11/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện M’Drắk kết luận: Giá trị thiệt hại của xe mô tô BKS 47G1- 112.05 tại thời điểm định giá là 730.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số 07/CT-VKS ngày 01 tháng 4 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện M’Đrắk truy tố bị cáo Hoàng Anh Ng về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm a khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự (BLHS).

*Tại phiên toà bị cáo khai: Do có mâu thuẫn trong khi tham gia giao thông, B quay xe lại nên anh Đ chở bị cáo quay xe lại theo. Do thấy anh Tr dùng tay đánh anh Đ, anh D dùng đoạn gỗ màu nâu đánh về phía anh Đ thì bị cáo đẩy anh Đ ra, trong lúc đẩy anh Đ ra thì bị cáo cũng bị anh D dùng cây gỗ đánh trúng vào người nên bị cáo cầm dao đâm khua về phía anh D thì vào hông anh D, do không rút dao ra được nên bị cáo bỏ chạy theo anh Đ. Bị cáo bị bắt giam nên chưa đến xin lỗi bồi thường cho anh D được. Việc anh D dùng cây gỗ đánh bị cáo không gây ra thương tích nên bị cáo không có ý kiến vào yêu cầu gì. Bị cáo chỉ chấp nhận bồi thường cho anh D khoảng 10.000.000đồng.

* Tại phiên tòa, bị hại anh Lê Văn D trình bày: Anh D không dùng cây gỗ đánh anh Đ và bị cáo, do thấy Đ đánh nhau với anh Tr, anh can ra thì bị anh Đ đánh nên đã rút dây nịt quật về phía anh Đ và bị cáo. Khi bị cáo bỏ chạy thì anh D đuổi theo khoảng 10m quay lại thì thấy mình bị thương tích do dao cắm vào bên hông. Anh Tr thấy vậy nên lấy một cây sắt đi tìm Ng và Đ nhưng được mọi người can ngăn. Anh Tr đập vào đĩa xe của Đ. Sau khi gây thương tích, bị cáo không xin lỗi và bồi thường, nên anh D đề nghị xử lý hành vi gây thương tích của bị cáo theo quy định luật hình sự. Anh D yêu cầu bị cáo phải bồi thường 40.000.000đồng, bao gồm các khoản sau: Tiền tổn thất về tinh thần 15.000.000đồng; Bồi thường tổn thất về sức khỏe 10.000.000đồng; Tiền mất thu nhập khi điều trị và nghỉ tại nhà 20 ngày 4.000.000đồng; Tiền công người chăm sóc 20 ngày 6.000.000đồng; Tiền mua thuốc bồi dưỡng sức khỏe 5.000.000đồng.

* Tại cơ quan điều tra, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Đậu Quang Đ khai: Khi anh Đ chở bị cáo đến chỗ anh Tr và anh D thì anh Tr xông vào đánh anh Đ, sau đó anh D dùng vật màu nâu gấp đôi đánh về phía anh Đ và bị cáo (BL 165) nhưng bị cáo đẩy anh Đ ra nên không trúng, sau đó anh Đ bỏ chạy. Khi người nhà quay lại lấy xe thì xe bị đập bố thắng và thắng đĩa bánh trước của xe. Anh Đ đã nhận lại xe, không yêu cầu bồi thường tiền sửa xe(BL 170a). Thương tích do anh Tr gây ra không đáng kể nên anh Đ không yêu cầu bồi thường (BL 169).

* Tại cơ quan điều tra, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Đinh Công Tr khai: Khi anh Đ và bị cáo đến, anh Tr và anh Đ dùng tay chân đánh nhau, anh D có đánh anh Đ nên anh Đ đánh lại sau đó bỏ chạy (không xác định đánh bằng gì vì sự việc xảy ra rất nhanh). Bị cáo khua tay về phía anh D rồi bỏ chạy theo anh Đ. Anh D đuổi theo bị cáo khoảng 5-10m thì quay trở lại mới phát hiện anh D bị thương (BL 188). Anh Tr gọi người chở anh D đến Trung tâm Y tế. Anh Tr nhặt cây sắt bên đường đập cong thắng đĩa trước làm bung bố thắng xe của anh Đ.

* Tại cơ quan điều tra, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan chị Nguyễn Ngọc Thiên Tr1 trình bày: Chị Tr1 là vợ của anh D. Chị Tr là người trực tiếp chăm sóc anh D trong thời gian điều trị tại bệnh viện và nghỉ dưỡng tại nhà. Chị Tr làm nghề chăm sóc sắc đẹp, thu nhập bình quân của chị Tr thấp nhất 300.000đồng/ngày. Do anh D đã yêu cầu tiền công của người chăm sóc nên chị Tr không có yêu cầu gì.

*Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện M’Đrắk giữ nguyên quan điểm, đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo Hoàng Anh Ng phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

- Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 134; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS: Xử phạt bị cáo từ 06 tháng đến 09 tháng tù. Áp dụng khoản 2 Điều 56 để tổng hợp hình phạt của bản án này với hình phạt 03 năm tù mà bị cáo phải chấp hành của bản án số 19/2020/HSST ngày 30/7/2020 của Tòa án nhân dân huyện M’Đrắk.

- Biện pháp tư pháp: Áp dụng điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm c khoản 2 điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Công nhận cơ quan điều tra trả lại cho anh Đ 01 (một) xe mô tô BKS 47G1-112.05; Tịch thu tiêu hủy 01 (một) con dao (loại dao gấp); 01 (một) sợi dây nịt (thắt lưng).

- Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng khoản 1 Điều 48 BLHS, Điều 590 Bộ luật Dân sự : Chấp nhận một phần yêu cầu của bị hại buộc bị cáo phải bồi thường cho bị hại tổng cộng 10.000.000đồng. Bao gồm: Tiền bồi thường tổn thất về tinh thần 3.000.000đồng; Tiền công người chăm sóc khi điều trị tại bênh viện và điều trị tại nhà 10 ngày là 3.000.000đồng; Tiền mất thu nhập khi nằm viện điều trị tại nhà 10 ngày 2.000.000đồng; Tiền bồi dưỡng sức khỏe sau khi ra viện 2.000.000đồng.

* Bị cáo và bị hại không có ý kiến tranh luận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện M’Đrắk, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện huyện M’Đrắk, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung:

[2.1] Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của những người tham gia tố tụng khác và các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án. HĐXX có đủ cơ sở pháp lý kết luận:

Vào khoảng 14 giờ 30 phút ngày 06/9/2020 tại Buôn M’Lốc B, xã Krông Jing, huyện M’Drắk, do có mâu thuẫn trong lúc tham gia giao thông nên xảy ra xô xát giữa anh Đinh Công Tr, anh Lê Văn D với anh Đậu Quang Đ nên bị cáo dùng dao gấp đâm một phát trúng vào hông lưng bên phải của anh D. Hậu quả anh D bị thương tích tỷ lệ 2%. Bị cáo dùng dao là hung khí nguy hiểm gây thương tích cho anh D (quy định tại điểm a khoản 1 Điều 134 BLHS). Nên hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 134 BLHS. Vì vậy quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện M’Đrắk là có căn cứ.

Tại điểm a khoản 1 Điều 134 BLHS quy định:

“1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác mà tỉ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

a) Dùng hung khí nguy hiểm … ”.

[2.2] Xét tính chất vụ án, mức độ cũng như hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội. Sức khỏe con người là bất khả xâm phạm, mọi hành vi xâm phạm trái pháp luật phải được nghiêm trị. Song với ý thức coi thường pháp luật, xem thường sức khỏe của người khác bị cáo đã dùng dao gây thương tích cho anh D. Do vậy hành vi của bị cáo cần phải được xử lý bằng pháp luật mới có tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành người công dân có ích cho xã hội.

[2.3] Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, sự việc xảy ra cũng do một phần lỗi của bị hại đã đánh bị cáo và anh Đ trước. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS. Bị cáo phạm tội trong thời gian thử thách hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo theo bản án số 19/2020/HSST ngày 30/7/2020 của Tòa án nhân dân huyện M’Drắk về tội cố ý gây thương tích, thuộc trường hợp trường hợp tái phạm, đây là những tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS.

Bị cáo thực hiện hành vi cố ý gây thương tích cho anh D trong thời gian thử thách, hình phạt tù 03 năm nhưng cho hưởng án treo, ngày 22/02/2021 bị cáo chấp hành hình phạt tại bản án số 19/2020/HSST. HĐXX cần áp dụng khoản 2 Điều 56 BLHS để tổng hợp hình phạt.

[3] Về trách nhiệm dân sự:

+ Sau khi bị thương tích anh D được đưa đi cấp cứu, điều trị tại Trung tâm y tế huyện M’Đrăk từ ngày 28/9/2019 đến ngày 03/10/2010. Vì vậy bị cáo phải có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại về sức khỏe cho anh D. Khoản tiền điều trị tại bệnh viện do bảo hiểm chi trả nên anh D không yêu cầu. Đối với những khoản tiền mà anh D yêu cầu là chưa phù hợp nên HĐXX cần áp dụng Điều 590 BLDS để tính toán lại. Cụ thể, buộc bị cáo phải bồi thường cho anh D những khoản tiền sau: Tiền mất thu nhập trong thời gian nằm viện 06 ngày và những nghỉ dưỡng tại nhà 04 ngày: 10 ngày x 200.000đồng = 2.000.000đồng; Tiền công người chăm sóc 06 ngày nằm viện và 04 ngày nghỉ dưỡng tại nhà: 10 x 300.000đồng = 3.000.000đồng; Tiền bồi dưỡng sức khỏe: 1.000.000đồng; Tiền bồi thường tổn thất về tinh thần 04 tháng lương cơ sở x 1.490.000đồng = 5.960.000đồng. Tổng cộng 11.960.000đồng.

+ Bác một phần yêu cầu của bị hại đối với yêu cầu bồi thường vượt quá quy định 28.040.000đồng.

+ Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Đậu Quang Đ đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bồi thường nên HĐXX không đặt ra xem xét, nếu có tranh chấp sẽ được giải quyết bằng vụ án dân sự khác khi có yêu cầu.

[4] Về vật chứng:

+ Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện M’Đrăk đã trả lại cho anh Đ 01 xe mô tô BKS 47G1-112.05 là đúng pháp luật nên cần chấp nhận

+ Đối với 01 (một) sợi dây nịt (thắt lưng) 01 (một) con dao (loại dao gấp) là công cụ phạm tội không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

[5] Về vấn đề khác: Cơ quan CSĐT chuyển xử phạt vi phạm hành chính đối với Đinh Công Tr và Lê Văn D và Đậu Quang Đ về hành vi “đánh nhau” , xử phạt vi phạm hành chính đối Đinh Công Tr về hành vi “Cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác” là phù hợp nên HĐXXX không đề cập xử lý.

[6] Về án phí: Bị cáo bị kết tội và phải bồi thường thiệt hại, nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000đồng và án phí dân sự sơ thẩm đối với số tiền phải thi hành là 598.000đồng.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Hoàng Anh Ng phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

1.1. Về hình phạt: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 134; điểm s khoản 1,2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS, xử phạt bị cáo Hoàng Anh Ng 06 (sáu) tháng tù.

1.2. Căn cứ khoản 2 Điều 56 BLHS: Tổng hợp hình phạt của bản án này với hình phạt 03 năm tù mà bị cáo Ng phải chấp hành của bản án số 19/2020/HSST ngày 30/7/2020 của Tòa án nhân dân huyện M’Drắk. Hình phạt chung bị cáo Ng phải chấp hành là 03 năm 06 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt kể từ ngày 22/02/2021.

2. Các biện pháp tư pháp:

2.1. Căn cứ khoản 1, 2 Điều 48 BLHS và Điều 590 BLDS: Chấp nhận một phần yêu cầu của bị hại anh Lê Văn D, buộc bị cáo Hoàng Anh Ng phải bồi thường cho anh Lê Văn D 11.960.000đồng (Mười một triệu chín trăm sáu mươi ngàn đồng) tiền bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự.

2.2. Bác một phần yêu cầu của bị hại anh Lê Văn D về yêu cầu bị cáo phải bồi thường tiền thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm 28.040.000đồng.

2.3. Về vât chứng: Áp dụng điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự;

điểm c khoản 2 điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Công nhận việc Cơ quan Cảnh sát điều tra công an huyện M’Đrăk trả lại cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Đậu Quang Đ 01 (một) xe mô tô BKS 47G1-112.05;

-Tịch thu tiêu hủy 01 (một) con dao (loại dao gấp) 01 (một) sợi dây nịt (thắt lưng). Đặc điểm vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng ngày 19/4/2021 giữa Cơ quan điều tra và Chi cục Thi hành án.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 BLTTHS; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/NQ- UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016: bị cáo Hoàng Anh Ng phải chịu 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí Hình sự sơ thẩm và 598.000đồng (Năm trăm chín mươi tám nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.

4. Thông báo quyền kháng cáo:

Bị cáo, bị hại có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án hình sự sơ thẩm trong hạn luật định là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án hình sự sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được niêm yết hợp lệ theo quy định.

Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

399
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 09/2021/HSST

Số hiệu:09/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về