Bản án về tội cố ý gây thương tích số 08/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN K - TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 08/2023/HS-ST NGÀY 24/02/2023 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Trong ngày 24/02/2023, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện K. Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 33/2022/HSST ngày 23/11/2022, đối với bị cáo:

Đinh Văn C - Tên gọi khác: Không; Sinh ngày 10/02/1996, tại Làng Kon Lanh, xã Đ, huyện K, tỉnh Gia Lai; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Làng Kon Lanh, xã Đ, huyện K, tỉnh Gia Lai; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Ba na; Tôn giáo: Không; Học vấn: 02/12; Nghề nghiệp: Làm nông; Tiền án: Không; Tiền sự: Có 01 tiền sự về hành vi “Cố ý gây thương tích”, bị Cơ quan CSĐT Công an huyện K ra Quyết định khởi tố bị can và Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú. Ngày 07/11/2017, Cơ quan CSĐT Công an huyện K ra Quyết định đình chỉ điều tra vụ án, đình chỉ điều tra bị cáo do bị hại rút đơn yêu cầu khởi tố. Bị cáo bị Trưởng Công an huyện K xử phạt vi phạm hành chính theo Quyết định số: 60/QĐ-XPHC ngày 07/11/2017, mức phạt tiền là 2.000.000 đồng, hiện bị cáo chưa chấp hành nộp phạt. Con ông Đinh V (đã chết), mẹ Đinh Thị L, vợ Đinh Thị X, có 01 con, sinh năm 2019, đều trú tại: Làng Kon Lanh, xã Đ, huyện K, tỉnh Gia Lai Bị cáo bị bắt giam giữ từ ngày 01/8/2022 cho đến nay có mặt tại phiên tòa.

2. Những người tham gia tố tụng:

*Người bào chữa cho bị cáo: Ông Lương Ngọc P - Luật sư, thực hiện trợ giúp pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Gia Lai (có mặt).

*Người bị hại: Anh Đinh Văn H, sinh năm 1995;

Địa chỉ: Làng Kon Lanh, xã Đ, huyện K, tỉnh Gia Lai (có mặt).

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại: Ông Nguyễn Công T - Trợ giúp viên pháp lý Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Gia Lai (có mặt).

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Đinh Thị X, sinh năm 2001; Địa chỉ: Làng Kon Lanh, xã Đ, huyện K, tỉnh Gia Lai (có mặt).

3. Vật chứng cần đưa ra xem xét tại phiên tòa:

- 01 (một) cái dao dài 31,5cm, phần cán giao làm bằng gỗ dài 13,5cm, lưỡi dao dài 18cm, rộng 09cm;

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 19 giờ ngày 05/4/2022, Đinh Văn C, Lê Anh T, Đinh Văn Q và Đinh Văn H, đều trú tại làng Kon Lanh, xã Đ, huyện K, tỉnh Gia Lai cùng ngồi nướng thịt, uống rượu với nhau tại nhà anh Lê Anh T. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày, Đinh Văn H và Đinh Văn N (trú cùng làng Kon Lanh) đến nhà anh T chơi.

Anh T thấy H và N đã say rượu, nên anh T nói H người uống mấy ly rồi về. Khi đang uống rượu thì xảy ra mâu thuẫn giữa Đinh Văn N với Lê Anh T, N dùng tay xô anh T ngã xuống nền nhà, rồi anh T và N xảy ra xô xát, đánh nhau. Cùng lúc đó, Đinh Văn H cũng lao vào đánh anh T bằng tay, anh T bị chảy máu ở vùng trán. Thấy vậy, Đinh Văn Q đến can ngăn, đồng thời kéo Đinh Văn H và và Đinh Văn N ra ngoài cửa phía trước nhà bếp. Lúc này, Đinh Văn C đang ngồi nướng thịt ở gần bếp, bực tức vì trong lúc uống rượu bị H và N đến gây sự nên C đã lấy con dao có đặc điểm (dài 31,5cm; cán dao bằng gỗ dài 13,5cm; lưỡi dao bằng kim loại 01 cạnh sắc dài 18cm; rộng 09cm) đang cắt thịt tại bếp nhà anh T chạy ra trước cửa, đứng đối diện với H, cách nhau khoảng 01m, C cầm dao ở tay phải dơ lên chém một cái về phía Đinh Văn H, H giơ tay trái lên đỡ nên trúng vào cổ tay. Sau đó được Q can ngăn nên C đi về nhà. H bị chém vào cổ tay trái chảy nhiều máu và được mọi người đưa đi cấp cứu tại Trung tâm y tế huyện K, đến ngày 20/4/2022 thì xuất viện.

* Tại kết luận giám định pháp y số: 190/22/TgT ngày 05/7/2022 của Trung tâm giám định pháp y tỉnh Gia Lai, kết luận thương tích của anh Đinh Văn H, như sau:

1. Dấu hiệu chính qua giám định:

- Một sẹo vết thương phần mềm nằm ngang mặt trước trong 1/3 dưới cẳng tay trái sát cổ tay kích thước (7,5x0,4)cm, sẹo liền, bờ mép đều rõ;

- Một sẹo mổ nằm dọc mặt trước 1/3 dưới cẳng tay trái kích thước (3,5x0,3)cm, sẹo liền;

- Vết thương cổ tay trái gây đứt gân cơ gấp C nông, C sâu các ngón II, III, IV, V dẫn đến hậu quả cứng khớp liên đốt 1-2 ngón II;

- Vết thương cổ tay trái gây đứt gân cơ gấp C nông, C sâu các ngón II, III, IV, V dẫn đến hậu quả cứng khớp liên đốt 1-2 ngón III;

- Vết thương cổ tay trái gây đứt gân cơ gấp C nông, C sâu các ngón II, III, IV, V dẫn đến hậu quả cứng khớp liên đốt 1-2 ngón IV;

- Vết thương cổ tay trái gây đứt gân cơ gấp C nông, C sâu các ngón II, III, IV, V dẫn đến hậu quả cứng khớp liên đốt 1-2 ngón V;

- Vết thương cổ tay trái gây đứt nhánh thần kinh giữa ngang mức vết thương ở cổ tay trái;

- Vết thương cổ tay trái gây đứt nhánh thần kinh trụ ngang mức vết thương ở cổ tay trái;

- Vết thương cổ tay trái gây đứt động mạch trụ trái, hiện tại không thiếu máu nuôi dưỡng;

2. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định là:

37% (ba mươi bảy phần trăm). Áp dụng P pháp cộng theo Thông tư 22/2019/TT-BYT.

* Vật chứng của vụ án: 01 (một) con dao dài 31,5cm; phần cán dao làm bằng gỗ dài 13,5cm; lưỡi dao dài 18cm, rộng 09cm là con dao Đinh Văn C giao nộp cho Cơ quan điều tra.

* Về bồi thường dân sự: Quá trình điều tra, bị hại Đinh Văn H yêu cầu bị cáo Đinh Văn C bồi thường số tiền 15.000.000 đồng, hiện bị cáo đã bồi thường đủ số tiền theo yêu cầu của bị hại, bị hại không yêu cầu gì thêm về dân sự, như vậy vấn đề dân sự trong vụ án đã giải quyết xong.

Tại Bản cáo trạng số 33/CTr-VKS ngày 22/11/2022, VKSND huyện K, tỉnh Gia Lai đã truy tố Đinh Văn C về tội: “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm c khoản 3 Điều 134 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (BLHS).

Tại phiên toà, đại diện VKSND huyện K vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng đã nêu và đề nghị HĐXX tuyên bố Đinh Văn C phạm tội: “Cố ý gây thương tích”; Áp dụng điểm c khoản 3 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Đinh Văn C mức án từ: 05 (năm) năm đến 06 (sáu) năm tù.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của BLHS và khoản 2 Điều 106 của BLTTHS; đề nghị tuyên tịch thu tiêu hủy đối với 01 (một) cái dao dài 31,5cm, phần cán giao làm bằng gỗ dài 13,5cm, lưỡi dao dài 18cm, rộng 09cm.

Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra, bị hại Đinh Văn H yêu cầu bị cáo Đinh Văn C bồi thường số tiền 15.000.000 đồng và 01 con heo, trị giá 2.000.000 đồng, trước phiên tòa, bị hại yêu cầu bị cáo bồi thường thêm 5.000.000 đồng. Bị cáo và bị hại đã tự nguyện thỏa thuận, bồi thường đủ số tiền theo yêu cầu của bị hại, bị hại không yêu cầu gì thêm về dân sự, như vậy vấn đề dân sự trong vụ án đã giải quyết xong, vì vậy đề nghị HĐXX không giải quyết về phần dân sự nữa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Đinh Thị X là người đã bồi thường thay cho bị cáo trình bày, đây là tài sản C của vợ chồng, chị không yêu cầu bị cáo phải trả lại tiền chị X đã bồi thường thay cho bị cáo. Vì vậy đề nghị HĐXX không giải quyết nữa.

Về án phí: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Bị cáo được miễn toàn bộ án phí HSST.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận gì với đại diện Viện kiểm sát.

Người bào chữa cho bị cáo, ông Lương Ngọc P nhất trí với nội dung cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân huyện K đã truy tố đối với bị cáo. Thống nhất với tội danh, Điều luật và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà Kiểm sát viên đã đưa ra. Tuy nhiên, người bào chữa đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra, bị hại cũng có một phần lỗi dẫn đến hành vi phạm tội của bị cáo, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và bị cáo là người dân tộc thiểu số, sống trong vùng kinh tế đặc biệt khó khăn nên trình độ hiểu biết pháp luật còn hạn chế đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm e khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Vì vậy, người bào chữa đề nghị Hội đồng xét xử xem xét xử phạt bị cáo dưới mức án thấp nhất mà vị Đại diện Viện kiểm sát đề nghị cũng đủ tác dụng giáo dục, răn đe.

Về trách nhiệm dân sự: Thống nhất với sự tự nguyện thỏa thuận của bị cáo và bị hại, bị hại đã nhận đủ tiền bồi thường và không yêu cầu gì thêm.

Về xử lý vật chứng: Thống nhất với đề nghị của Viện kiểm sát.

Về án phí: Bị cáo là người dân tộc thiểu số, sống trong vùng kinh tế đặc biệt khó khăn nên đề nghị miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, ông Nguyễn Công T trình bày: Thống nhất với lời luận tội của Viện kiểm sát về tội danh, điều luật, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo. Nhưng không thống nhất với quan điểm của người bào chữa cho bị cáo về áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự là bị hại cũng có một phần lỗi dẫn đến hành vi phạm tội của bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo ở trong mức hình phạt mà vị Đại diện Viện kiểm sát đề nghị mới đủ tác dụng giáo dục, răn đe.

Về trách nhiệm dân sự: Đã giải quyết xong nên không đề nghị.

Về xử lý vật chứng: Thống nhất với đề nghị của Viện kiểm sát.

Bị cáo là người dân tộc thiểu số, sống trong vùng kinh tế đặc biệt khó khăn nên đề nghị miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng đã nêu và không tranh luận gì với đại diện Viện Kiểm sát, bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện K, Điều tra viên, VKSND huyện K, KSV trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS). Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, lời khai của bị cáo Đinh Văn C phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan cảnh sát điều tra và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, qua đó có thể xác định rằng: Khoảng 20 giờ ngày 05/4/2022, trong lúc ngồi uống rượu tại nhà anh Lê Anh T tại Làng Kon Lanh, xã Đ, huyện K, thấy Đinh Văn H và Đinh Văn N đánh anh T chảy máu, do bực tức trong lúc uống rượu bị Đinh Văn H và Đinh Văn N đến gây sự, nên bị cáo C đã lấy con dao đang cắt thịt tại bếp nhà anh T chém một nhát về phía Đinh Văn H gây thương tích cho anh Đinh Văn H. Được kết luận luận giám định của Trung tâm giám định pháp y tỉnh Gia Lai, xác định tỷ lệ tổn thương cơ thể của Đinh Văn H là 37% (ba mươi bảy phần trăm). Do đó hành vi của bị cáo đã phạm vào tội: “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại khoản 3 Điều 134 của BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Mặc dù tỷ lệ thương tích bị cáo gây ra cho bị hại là 37%, nhưng hành vi của bị cáo dùng dao sắc là hung khí nguy hiểm; mặt khác, giữa bị cáo và bị hại không có mâu thuẫn gì, nhưng chỉ vì bênh vực bạn cùng ngồi nhậu bị bị hại và Đinh Văn N đánh mà bị cáo đã dùng dao chém bị hại, đã thể hiện rõ tính chất côn đồ của bị cáo trong vụ án, đây là các tình tiết định khung tăng nặng được quy định tại điểm a và điểm i khoản 1 Điều 134 của BLHS. Do vậy bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm c khoản 3 Điều 134 BLHS, đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện K đã truy tố.

[3] Xét về nhân thân; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, HĐXX xét thấy:

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân X, ngày 23/7/2017, có hành vi “Cố ý gây thương tích” bị Cơ quan CSĐT Công an huyện K ra Quyết định khởi tố bị can và Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú. Ngày 07/11/2017, Cơ quan CSĐT Công an huyện K ra Quyết định đình chỉ điều tra vụ án, đình chỉ điều tra bị cáo do bị hại rút đơn yêu cầu khởi tố. Bị cáo bị Trưởng Công an huyện K xử phạt vi phạm hành chính theo Quyết định số: 60/QĐ-XPHC ngày 07/11/2017, mức phạt tiền là 2.000.000 đồng, hiện bị cáo chưa chấp hành nộp phạt.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; bị cáo đã tác động gia đình bồi thường khắc phục được toàn bộ hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của BLHS năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[4] Qua ý kiến luận tội của đại diện VKS đã đề nghị hướng xử lý vụ án quan điểm bào chữa của người bào chữa, quan điểm của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại. Sau khi xem xét nhân thân của bị cáo; đánh giá tính chất mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội cũng như xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự áp dụng đối với bị cáo. HĐXX thấy rằng: Hành vi của bị cáo là hành vi là rất nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó không những xâm phạm đến sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ, mà còn làm ảnh hưởng X đến trật tự an ninh trên địa bàn, song xuất phát từ ý thức xem thường pháp luật, coi thường sức khỏe của người khác nên bị cáo đã có hành vi phạm tội như nói ở trên. Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm, áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo, cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người lương thiện và nâng cao hiệu quả phòng ngừa C.

Xét quan điểm, đường lối giải quyết vụ án của đại diện VKSND huyện K, đề nghị HĐXX áp dụng điều luật đối với bị cáo, về xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự là phù hợp nên được HĐXX chấp nhận.

[5] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 (một) cái dao dài 31,5cm, phần cán dao làm bằng gỗ dài 13,5cm, lưỡi dao dài 18cm, rộng 9cm, là tài sản của gia đình anh T, do bị cáo dùng để chém bị hại Đinh Văn H. Tại phiên tòa, anh T không yêu cầu nhận lại, vì xét vật chứng không còn giá trị sử dụng nên cần áp dụng Điều 47 của BLHS và khoản 2 Điều 106 của BLTTHS để tuyên tịch thu tiêu hủy đối với con dao trên.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra và trước phiên tòa, bị hại yêu cầu bị cáo bồi thường 3 lần tổng cộng là 20.000.000 đồng và 01 con heo trị giá 2.000.000 đồng. Bị cáo và bị hại Đinh Văn H đã bồi thường xong, bị hại không yêu cầu gì thêm về dân sự, vì vậy HĐXX không đề cập giải quyết về phần dân sự nữa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Đinh Thị X là người đã bồi thường thay cho bị cáo trình bày, đây là tài sản C của vợ chồng, chị không yêu cầu bị cáo phải trả lại tiền chị X đã bồi thường thay cho bị cáo. Vì vậy, HĐXX không xem xét giải quyết.

[7] Về án phí: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/ 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Bị cáo Đinh Văn C được miễn toàn bộ án phí HSST theo quy định.

Tại phiên tòa, bị cáo Đinh Văn C khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu và không tranh luận gì với đại diện VKS; bị cáo đã nhận thức được hành vi phạm tội của mình và xin giảm nhẹ hình phạt.

Người bào chữa cho bị cáo, bị hại, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến tranh luận.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Đinh Văn C phạm tội:“Cố ý gây thương tích".

Áp dụng điểm c khoản 3 Điều 134; Điều 38; điểm b, s khoản 1, khoản 2, Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Đinh Văn C 05 (năm) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt giam giữ (ngày 01/8/2022).

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của BLHS và khoản 2 Điều 106 của BLTTHS: Tuyên tịch thu tiêu hủy 01 (một) cái dao dài 31,5cm, phần cán dao làm bằng gỗ dài 13,5cm, lưỡi dao dài 18cm, rộng 9cm.

(Đặc điểm cụ thể theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 13/12/2023 giữa Công an huyện K và Chi cục Thi hành án dân sự huyện K).

Về án phí: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Bị cáo Đinh Văn C được miễn toàn bộ án phí HSST theo quy định.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự (LTHADS) thì người được THA dân sự, người phải THA dân sự có quyền thoả thuận THA, quyền yêu cầu THA, tự nguyện THA hoặc bị cưỡng chế THA theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 LTHADS; thời hiệu THA được thực hiện theo quy định tại Điều 30 LTHADS.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo, bị hại có quyền làm đơn kháng cáo đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử phúc thẩm, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo đối với phần nghĩa quyền lợi, vụ liên quan./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

26
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 08/2023/HS-ST

Số hiệu:08/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện KBang - Gia Lai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/02/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về