TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ QUẢNG NGÃI, TỈNH QUẢNG NGÃI
BẢN ÁN 08/2023/HS-ST NGÀY 07/02/2023 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 07 tháng 02 năm 2023, tại Tòa án nhân dân thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 170/2022/TLST-HS ngày 27/10/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 589/2022/QĐXXST-HS ngày 08/12/2022, Quyết định hoãn phiên tòa số: 627/2022/HSST-QĐ ngày 28/12/2022, Thông báo về việc chuyển ngày xét xử số: 22/TB-TA ngày 06/01/2023 đối với bị cáo:
Họ tên: ĐẶNG THÀNH T, sinh ngày 03/3/1986 tại tỉnh Quảng Ngãi; nơi cư trú: Số 64/2 đường Bắc Sơn, tổ 6, phường X, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng L và bà Lê Thị Kiều N; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 04/7/2022 đến nay; có mặt.
- Người đại diện hợp pháp của bị cáo: Bà Lê Thị iều N, sinh năm 1954. Địa chỉ: Số 64/2 BS, tổ 6, phường NC, thành phố QN, tỉnh Quảng Ngãi, là mẹ của bị cáo Đặng Thành T, có mặt.
- Người bào chữa cho bị cáo Đặng Thành T: Ông Nguyễn Tấn L–Là luật sư thuộc Văn phòng luật sư T và C ào chữa theo chỉ định cho ị cáo Đặng Thành T. Địa chỉ: Số 185 đường BC, phường LHP, thành phố QN, tỉnh Quảng Ngãi, có mặt.
- Bị hại: Ông Đặng L, sinh năm 1952. Địa chỉ: Số 64/2 BS, tổ 6, phường NC, thành phố QN, tỉnh Quảng Ngãi, vắng mặt, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ: Ông Đặng Quang K, sinh năm 1984, nơi cư trú: Số 64/2 BS, tổ 6, phường NC, thành phố QN, tỉnh QN. Đang chấp hành án tại Trại giam im Sơn, xã Ân Nghĩa, huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định, có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Từ năm 2005 đến 2012, Đặng Thành T đi lao động ở Hàn Quốc và gửi về cho ông Đặng L (cha ruột T) số tiền khoảng 1,8 tỷ đồng để xây nhà, trang trải cuộc sống gia đình và cất giữ cho T. Sau khi T trở về nhà sinh sống, ông L có đưa tiền cho T để T sử dụng tiêu xài và làm ăn khi T cần. Đến khoảng 08 giờ 30 ngày 14/02/2019, tại phòng khách nhà ông L ở số 64/2 đường Bắc Sơn thuộc tổ 06, phường X, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi, Đặng Thành T tiếp tục nói ông L đưa tiền, nhưng ông L không đồng ý, nên hai cha con có lời qua tiếng lại và cãi nhau. Đặng Thành T nói “Ông đưa tiền cho tôi đi làm ăn”, ông Lại trả lời “Ba mới đưa tiền cho con đi mua hồ sơ, giờ hồ sơ làm chưa xong thì từ từ ba đưa”. Lúc này, Đặng Quang (sinh năm 1984, H TT: Tổ 06, phường X, T Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi, là anh ruột của T và cũng là con ruột của ông L) từ trên tầng lầu nhà đi xuống, Đặng Thành T nói K “Phụ em giữ ổng lại” thì dùng tay xô ông L ngã trong tư thế nằm sấp; K ngồi lên người ông L, tay trái đè ngang gáy cổ, tay phải đánh vào đầu và lưng ông L. Còn Đặng Thành T lấy 01 ghế Inox cầm bằng hai tay đánh nhiều cái vào người ông L. Do bị đánh đau, ông L nói “Thôi đừng đánh ba nữa, để ba đi lấy tiền, rồi hai con đánh ba chết cũng được” thì và Đặng Thành T không đánh nữa. Ông L đứng lên đi vào phòng ngủ. Tại đây, ông L mở tủ lấy tiền đưa cho Đặng Thành T 12.000.000 đồng (Mười hai triệu đồng). Sau đó, ông L tiếp tục tự đưa cho K 01 ví da, bên trong có số tiền khoảng 400.000 đồng (Bốn trăm nghìn đồng) đến 500.000 đồng (Năm trăm nghìn đồng) và 01 điện thoại Nokia màu đen. Sau khi có được tiền, Đặng Thành T và Đặng Quang K rời khỏi nhà rồi phần ai nấy đi, không liên lạc gì với nhau; còn ông Đặng L chạy ra ngoài truy hô nhờ người dân báo Công an phường X, T Quảng Ngãi đến lập biên bản sự việc, tạm giữ 01 ghế inox có 04 chân, mặt ghế bị móp méo biến dạng.
Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 44/TgT, ngày 13/3/2019 của Trung tâm pháp y tỉnh Quảng Ngãi kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể của ông Đặng L, gồm: Gãy xương trụ cẳng tay trái: 10%. Gãy xương sườn số 7,8 trái: 2,7% (Cộng lùi). 01 sẹo trán phải: 0,87% (Cộng lùi). 01 sẹo mi trên mắt trái: 0,86% (Cộng lùi). Tổng cộng: 14,43%, làm tròn số = 14%. Tổn thương trên phù hợp vật tày gây thương tích. Căn cứ Thông tư số: 20/2014/TT-BYT 12/6/2014 của Bộ y tế quy định, tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là: 14% (Mười bốn phần trăm).
Ngày 10/4/2019, Cơ quan điều tra Công an thành phố Quảng Ngãi khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can, ra Lệnh bắt bị can để tạm giam đối với Đặng Thành T, Đặng Quang K về tội “Cố ý gây thương tích”, quy định tại khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên, Đặng Thành T sau khi phạm tội bỏ trốn khỏi địa phương, đến ngày 04/7/2022 thì bị bắt theo Lệnh truy nã. Ngày 11/7/2022, Cơ quan điều tra đã phục hồi điều tra vụ án đối với Đặng Thành T.
Quá trình phục hồi điều tra vụ án, ngày 15/8/2022 Cơ quan điều tra trưng cầu giám định về tình trạng khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của Đặng Thành T. Tại ết luận giám định pháp y tâm thần số 1666/ LGĐ, ngày 14/9/2022 của Trung tâm Pháp y tâm thần khu vực Miền Trung kết luận:
* Trước thời điểm gây án: Về y học: Rối loạn loạn thần trong rối loạn tâm thần và hành vi do sử dụng nhiều loại ma tuý và chất tác động tâm thần khác, giống tâm thần phân liệt (F19.50). Về khả năng nhận thức và điều khiển hành vi: Hạn chế khả năng nhận thức và hạn chế khả năng điều khiển hành vi.
* Tại thời điểm gây án: Về y học: Rối loạn loạn thần trong rối loạn tâm thần và hành vi do sử dụng nhiều loại ma tuý và chất tác động tâm thần khác, giống tâm thần phân liệt (F19.50). Về khả năng nhận thức và điều khiển hành vi: Hạn chế khả năng nhận thức và hạn chế khả năng điều khiển hành vi.
* Thời điểm hiện tại: Về y học: Trạng thái loạn thần di chứng do sử dụng nhiều loại ma tuý và chất tác động tâm thần khác (F19.7); cần được điều trị ngoại trú. Về khả năng nhận thức và điều khiển hành vi: Hạn chế khả năng nhận thức và hạn chế khả năng điều khiển hành vi.
Tại bản cáo trạng số 140/CT-VKS ngày 25-10-2022, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi truy tố Đặng Thành T về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quảng Ngãi vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:
Tuyên bố bị cáo Đặng Thành T phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm q, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Đặng Thành T từ 03 năm tù đến 03 năm 06 tháng tù.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng: Các hành vi, quyết định của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng thẩm quyền, đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
[2] Bị hại ông Đặng L vắng mặt tại phiên tòa nhưng đã có lời khai trong quá trình điều tra nên việc vắng mặt của bị hại không ảnh hưởng đến việc xét xử. Do đó, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định tại Điều 292 của Bộ luật tố tụng hình sự.
[3] Tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo Đặng Thành T khai nhận hành vi phạm tội của mình: Ngày 14/02/2019, tại phòng khách nhà ông Đặng L ở số 64/2 đường Bắc Sơn thuộc tổ 06, phường X, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi, do có mâu thuẫn về việc ông Lại (là cha ruột của T) không đưa tiền cho bị cáo T đi làm ăn; lúc này Đặng Quang K từ tầng 2 đi xuống, thì T nói K “phụ em giữ ông lại”. Nghe vậy, Đặng Quang K xô ông L ngã rồi dùng tay đánh vào đầu và lưng của ông L; còn Đặng Thành T cầm ghế Inox là hung khí nguy hiểm đánh vào người ông L, gây thương tích cho ông Lại với tỷ lệ tổn thương cơ thể 14% (Mười bốn phần trăm).
Lời khai nhận tội của ị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của người làm chứng, phù hợp với ản kết luận giám định pháp y về thương tích của ông Đặng L, phù hợp với cơ chế hình thành vết thương do ị cáo T và anh gây ra. Hành vi của bị cáo T có tính chất côn đồ. Như vậy, có đủ căn cứ kết luận: Hành vi của ị cáo Đặng Thành T mà ản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quảng Ngãi đã truy tố ị cáo Đặng Thành T về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, ổ sung năm 2017 hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Hành vi của bị cáo T không những trực tiếp xâm phạm đến sức khỏe của bị hại mà còn gây mất trật tự an toàn ở địa phương, gây hoang mang lo sợ trong quần chúng nhân dân. Do đó, cần phải được xét xử nghiêm minh theo pháp luật và áp dụng hình phạt tương xứng với hành vi của bị cáo nhằm răn đe giáo dục đối với bị cáo và góp phần ổn định tình hình trật tự xã hội ở địa phương. Đây là vụ án đồng phạm, nhưng đồng phạm giản đơn. Bị cáo Trung có vai trò là người thực hành.
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: hông.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai áo, ăn năn hối cải; tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội, ị cáo có ệnh ị hạn chế khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi; bị hại có đơn ãi nại, xin giảm hình phạt cho bị cáo; bị cáo T có ông ngoại được Nhà nước tặng Huân chương kháng chiến hạng Nhất, Bằng khen Chiến sĩ Cách mạng bị địch bắt tù; mẹ ruột được Nhà nước tặng kỷ niệm chương Chiến sĩ Cách mạng bị địch bắt tù; đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo được quy định tại điểm s, điểm q khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
[4] Đối với hành vi Đặng Quang đã ị Toà án nhân dân thành phố Quảng Ngãi xét xử, phạt 05 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”, quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự (Tại Bản án số 80/2019/HS-ST ngày 12/11/2019). Hiện Đặng Quang đang chấp hành hình phạt tù tại Trại giam im Sơn, tỉnh Bình Định.
[5] Trong vụ án này, Đặng Thành T có hành vi dùng vũ lực để buộc ông L đưa tiền, nhưng số tiền 12.000.000đ mà ông L đưa cho T là tiền của T đi làm có được gửi ông L cất giữ trước đó. Đồng thời trước khi đánh ông Đặng L, bị cáo T và Đặng Quang K không có bàn bạc mà chỉ mang tính tự phát. Sau khi bị đánh ngoài việc đưa tiền cho bị cáo T, ông L còn đưa tiền và điện thoại của ông cho K nhưng việc đưa các tài sản này cho K là hoàn toàn tự nguyện. Do đó, hành vi của Đặng Thành T, Đặng Quang K không cấu thành tội “Cướp tài sản”, quy định tại Điều 168 Bộ luật Hình sự.
[6] Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Bị hại ông Đặng L không yêu cầu bồi thường thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm.
[7] Về xử lý vật chứng: 01 ghế Inox có 04 chân, cao 47cm, đường kính của mặt ghế 28cm, hai chân ghế bị cong vênh, cạnh mặt ghế bị móp méo biến dạng trong diện kích thước (20x4)cm, đã được tịch thu tiêu huỷ tại Bản án số 80/2019/HS-ST ngày 12/11/2019 của Toà án nhân dân thành phố Quảng Ngãi.
[8] Người bào chữa cho bị cáo Đặng Thành T đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm s, điểm q khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo T từ 02 năm tù đến 03 năm tù. Xét thấy người bào chữa đề nghị áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo là phù hợp với nhận định trên nên Hội đồng xét xử chấp nhận, còn nội dung đề nghị mức hình phạt không phù nên Hội đồng xét xử không chấp nhận.
[9] Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quảng Ngãi đề nghị về tội danh, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, mức hình phạt đối với bị cáo T là phù hợp với nhận định trên nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[10] Về án phí trong vụ án hình sự: Bị cáo Đặng Thành T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng.
[11] Tuyên quyền kháng cáo cho người tham gia tố tụng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1- Căn cứ vào: Điểm đ khoản 2 Điều 134, Điều 17, Điều 38, điểm s, điểm q khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 58, Điều 50 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, ổ sung năm 2017.
Tuyên ố: Bị cáo Đặng Thành T phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
Xử phạt bị cáo Đặng Thành T 03 (Ba) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 04-7-2022.
2- Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy an thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Bị cáo Đặng Thành T phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
3- Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.
Bị cáo, người bào chữa, người đại diện hợp pháp của bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bản án về tội cố ý gây thương tích số 08/2023/HS-ST
Số hiệu: | 08/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Quảng Ngãi - Quảng Ngãi |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 07/02/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về